Bài học Minh Tuệ-20. TỪ MINH TUỆ ĐẾN GLANG ANAK-1. CÁI BIẾT

[về vài TỪ cốt tủy của Ariya Glơng Anak]

1. Không của cải, tiền bạc, không nhà cửa hay nơi trú thân, không tí ti quyền lực, vậy mà đạo sĩ Minh Tuệ đã tạo nên sức hút không thể cưỡng.

Tiếng Cham: ‘Thau’: biết, ‘Thau krưn’: nhận biết, ‘Xakrưn’: nhận thức.

Sokrates biết gì? – Biết mình không biết gì cả, là cái biết sâu thẳm nhất ở triết gia này. Minh Tuệ biết gì? – Biết lí vô thường, sự sự biến đổi không ngừng.

Cả hai biết và làm, “hết mình & tới cùng”. Thu hút là ở đó.

Continue reading

Tiếng Cham của bạn. ‘HATAI’ ĐƯỢC DÙNG THẾ NÀO?-2

“Hatai’: “gan, tâm điểm” là một trong những từ cốt tủy, và cực hay trong tiếng Cham, nhưng lạ – ít người dùng. Ngoài đứng biệt lập, ‘hatai’ còn kết hợp với từ khác để tạo nên từ ghép tràn ý nghĩa. Vừa được dùng làm hình vị chính, và cả hình vị phụ trong từ ghép. Thử kê:

Hình vị đầu:

[‘Habau di] hatai ging’: [Tro] giữa lò bếp

‘Hatai tian’: gan dạ, can đảm

Hình vị cuối, có:

Continue reading

Nỗi Cham-30. VỤ PHƯỚC NHƠN, AKHAR THRAH & TÔI

Ramưwan năm nay, Phước Nhơn đang tư thế tối Văn nghệ lớn, bỗng mưa to ập tới, và kéo dài: tạm nghỉ. Mưa bất thình lình, vài người đổ cho tại lễ hội chính [còn quen gọi là Tết Bà-ni], mà băng-crôn vắng bóng Akhar thrah!

Xuan Bao có viết về vụ này, thấy không ai nhúc nhích, mới nhắc khéo tôi cei viết mới “si-nhê”. Tôi ậm ừ, rồi cho qua đến tận hôm nay.

Continue reading

Tiếng Cham của bạn. THÊM 1 SINH LINH CHỮ VÀO NGHĨA TRANG

Gok mai’ [‘gaok/ gauk mai’]: “có khi, đôi khi, đôi lúc” là từ được dùng thường xuyên trong đời sống hàng ngày, lại không hân hạnh có mặt trong Từ điển. ‘Gok mai hu, gok mai thoh’: “Có khi có, có khi không”. ‘Gok mai mong bbôh nhu: “Đôi lúc nhìn thấy nó”.

Quá nhiều từ như thế đã và đang được/ bị đứa con Cham vô tình đẩy vào nghĩa trang chữ, đến tôi không còn nước mắt khóc tiễn đưa nữa. Buồn không!

Jalo jalai” được Pô Adhya Hán Bằng cho là đồng dao cổ nhất của Cham, đã đọc chuẩn cho tôi chép, in trong Văn học Dân gian Cham-1995. Đồng dao đựng chứa nhiều hình ảnh sinh hoạt cộng đồng Cham thuở ấy, thêm cái độc đáo trong cách sử dụng ngôn từ.

Continue reading

Tiếng Cham của bạn. CHAM CHÀO THẾ NÀO?

“Bạn không nhìn thấy cái gì đó, không phải nó không có” – Inrasara nói thế!

[xem video ở kênh Inrasara-TV]

Lạ lắm, tôi vừa biết có người kêu Cham không có chữ ‘xalam’ (chào)! Người có học đàng hoàng chớ chẳng đùa. Như trước đây…

[1] Có bạn kêu Cham không có chữ ‘karun’ (cảm ơn). Chuyện dài tập, từ thời Ban Biên soạn, các bác chưa dùng, mãi khi tôi vào làm việc, đưa ra đủ đầy tang chứng, Ngữ văn Cham mới có ‘karun’ từ đó [đã kể].

Continue reading

MÚA PHỒN THỰC, THẾ LÀ THẾ NÀO?

Một điệu múa cổ xưa còn truyền lưu đến tận hôm nay. Một điệu múa huyền ảo và vui vẻ, trần tục mà linh thánh. Múa lễ ở đời thực đã hay, nghệ sĩ Cham diễn trên VTV1 càng đẹp, không chê vào đâu được. Có mỗi ngôn từ làm sạn phim.

Dịch không phải không cần thiết, tội là ta dịch mà không cần đến văn hóa tra cứu? Hết Múa phồn thực, đến Múa Âm dương – là sao?

Continue reading

Tiếng Cham tinh nghĩa. CHỮ ‘JAWA LAI’ TỪ ĐÂU MÀ RA?

Một tút của tôi có nhắc đến chữ ‘‘Jawa lai’, một bạn còm: “cái gọi Jawa lai rất miệt thị và xúc phạm” – đúng! Bạn khác còm thêm, rằng tôi nói vô bằng chứng, “nói nhảm, a-dua, bầy đàn”. Tôi có trả lời qua, nay xin nói rõ hơn.

Trước tiên, Báo Mang Xoài ở Văn Lâm là Muslim chính hiệu, anh là người bạn rất thân của tôi, thân nhau cho đến anh mất. Bạn khác: Kiều Chí ở Thành Tín mươi năm trước bỏ Bà-ni theo Islam, hai chúng tôi vẫn là bạn. Tôi còn có cả ngàn người thân quen là Cham Muslim ở nhiều vùng miền khác nhau nữa. Không ai gọi họ là ‘Jawa lai’ cả!

Vậy ‘Jawa lai’ là ai?

Continue reading

Tiếng Cham tinh nghĩa: VÀI ĐÍNH CHÍNH

[về Ngôn từ và Văn hóa]

Tiếng Cham suy thoái do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ đó bị dùng sai lệch. Mấy lần tôi đã bàn, nay đưa vài điểm cụ thể.

[1] WAH GE, một điệu trống Ginang là điệu “chèo thuyền” ta hay đọc sai thành ‘hua ge’ (kéo bẫy), do không hiểu từ ‘wah’ là “chèo”.

[2] BIMÔNG: tháp, phải là một cụm 3-4 cái mới gọi là ‘bimông’ (nghĩa đen là: chùm, quày).

Continue reading

Tôi-103. Không tranh với thế gian-02. CHỮ CHAM

Akhar thrah’ “chữ Cham phổ thông” ra đời thời Pô Rômê (1627-1651), đến nay phát triển qua 4 giai đoạn:

[1] ‘Akhar thrah’ trên Agal Bac (kinh Cham Ahiêr) có mặt 300 năm + Văn bản hành chính (Tư liệu Hoàng gia và ‘Harak hamu’ các loại…) trên dưới 150 năm + Văn bản ở đời thường (văn chương, lịch sử, phong tục tập quán…)

[2] Tất cả được sưu tập, bàn bạc, chọn lọc, chỉnh sửa để làm ra Từ điển Aymonier-1906.

Continue reading

Tôi-103. Không tranh với thế gian-01. TIẾNG CHAM

Bạn văn NVN mươi năm trước “chat” có vẻ hơi phiền: “Cham cãi nhau nhiều quá”, ý ở đó có cả Sara. Tôi nói, bạn thấy tôi cãi nhau với Cham ở đâu, là giỏi.

“Chiến trường Akhar thrah”, tôi tự đặt mình ngoài cuộc. Chỉ vì công việc luôn dính đến ngôn ngữ Cham, nên mỗi bận tôi đi ngang qua bãi ấy, thấy có chuyện, tôi dừng chân, nói đôi điều – rồi đi. Tôi gọi đó là “đính chính” hay “minh định”, chứ đồng bào nào thấy tôi cãi tay đôi hay chưởi rủa ai bao giờ.

Hai bạn Cham thế hệ mới, mới đây thư cho tôi: “Kamuen viết Akhar thrah ‘truyền thống’ đó cei”. Nghĩa là không phải chữ Cham theo BBS, mà là: “truyền thống”. Một câu tưởng trúng, ai dè sai nặng.

Continue reading