Inrasara: Cham Pangdurangga – ngang bướng, đau khổ, kiêu hãnh và đầy bất an

(Chủ đề Bất an Dự án Nhà máy Điện hạt nhân – Ninh Thuận)

Văn hóa Champa là văn hóa đùa vui
Chịu chơi cả trong đau khổ
.
Inrasara, Lễ Tẩy trần tháng Tư, 2002

* Patuw Tablah Đá Chẻ ở Chung Mỹ – Photo Inrajaya.

1. Pangdurangga là khu vực địa lí lịch sử cực nam trong 4 khu vực thuộc vương quốc Champa. Suốt chiều dài lịch sử đầy biến động của vương quốc, khu vực này luôn chịu thiệt. Về mọi mặt. Xa trung tâm văn hóa lớn là vùng Amaravati thời Champa hưng thịnh, nó ít được ưu ái; không biết bao lần bị đoàn quân Khmer xâm lăng mà nó phải đơn thương chống cự, rồi sau đó khi vương quốc suy yếu, Pangdurangga đã đứng trụ chính chịu trận để thay mặt cả dân tộc mà tồn tại. Tồn tại theo đúng tính cách của người Pangdurangga. Vị trí địa lí cùng hoàn cảnh sống buộc nó tự trang bị tinh thần độc lập. Tinh thần độc lập cùng sự đề kháng được tôi luyện thế hệ này qua thế hệ khác làm nên sức chịu đựng đến lì lợm. Do đó chẳng ngạc nhiện khi không ít lần, nó gây phiền hà cho chính triều đình trung ương. Thử đọc qua bí kí dựng trên đồi tháp Po Klaung Girai vào giữa thế kỉ XI(1):
… vì người ở vùng Pangdurangga này ngang bướng, ngu ngốc, hung ác luôn chống lại hoàng đế tối cao. Cuối cùng ngài phải thân chinh đến. Những kẻ chống đối muốn tôn người Pangdurangga lên ngôi vua. Nhưng bằng trí thông minh khôn khéo của mình, ngài đã chinh phục được tất cả…” Continue reading

Inrasara: Văn xuôi dân tộc thiểu số, khác biệt từ vùng miền

Đã đăng tạp chí Văn nghệ Cao Bằng, Tết 2012

 

1. Đất nước mở cửa, ở các tỉnh Việt Bắc và Tây Bắc, song hành với thơ, văn xuôi các dân tộc thiểu số phát triển đều và rộng, với hàng loạt tác giả tên tuổi có mặt hầu như khắp các tỉnh phía Bắc: Mã A Lềnh (sinh 1943, Mông, Lào Cai), Ma Trường Nguyên (sinh 1944, Tày, Thái Nguyên), Cầm Hùng (sinh 1945, Thái, Sơn La), Sa Phong Ba (sinh 1948, Thái, Sơn La), Hoàng Hữu Sang (sinh 1950, Tày, Yên Bái), Nguyễn Minh Sơn (sinh 1951, Tày, Thái Nguyên), La Quán Miên (sinh 1951, Thái, Nghệ An), Đoàn Lư (sinh 1959, Tày, Cao Bằng)…

Sau mười lăm năm dọ dẫm, bước sang thế kỉ XXI, Continue reading

Inrasara: Việt Nam thơ, vùng trũng hay cường quốc?

Bài đã đăng trên BBCVietnamese.com, 18-2-2012 &  Tienve.org, 19-2-2012

“Tuần lễ SEA Write Award tháng 10-2005, trong buổi giao lưu với Hội Nhà văn và sinh viên văn chương Thái Lan, tôi nêu lên câu hỏi khiến hội trường ngạc nhiên không ít: Có ai trong chín vị SEA Write Awardees năm nay – chín khuôn mặt [được coi là] đại diện xuất sắc nhất của văn chương nước mình – quen biết nhau, đọc của nhau hay thậm chí, biết đến tên nhau? Không ai cả! Văn chương khu vực này mãi đến hôm nay vẫn còn đóng cửa với nhau, là vậy. Nhà văn Đông Nam Á không quan tâm đến nhau, không cần nhau, nếu không muốn nói – xem nhẹ nhau và, xem nhẹ chính mình. Chúng ta có học (dịch thuật, nghiên cứu, hội thảo) là học người khác chứ không học tập ta. Tâm lí hậu thuộc địa còn trì nặng nơi tâm thức sáng tạo của mỗi người viết Đông Nam Á. Continue reading

Lối thoát nào cho thơ nhà trường hôm nay?

báo Nhân dân cuối tuần, 8-1-2012

1. Ngay từ những năm sau thế chiến thứ hai, thơ là thể loại văn chương luôn bị đặt trong tình trạng dự báo tuyệt chủng. Câu nói nổi tiếng của T.W. Adorno: “Làm một bài thơ sau Auschwitz là điều dã man” vang lên như một ám ảnh. Nhưng hơn nửa thế kỉ qua, thơ cứ sống, và sống khỏe nữa. Rồi khi văn hóa nghe nhìn phát triển lấn át văn hóa đọc, lần nữa các nhà tiên tri [giả] chộp cơ hội, lớn tiếng tuyên bố tiếng chuông đưa tang thi ca đang được đánh tới hồi cuối.

Cũng phải thôi. Có bài thơ nào trong vài chục năm qua gây chấn động dư luận bằng cái chết của công nương Diana? Chưa nói sự chênh lệch cả vực thẳm tỉ lệ người đọc Y. Bonnefoy với các fan mê cái chân trái đầy ma thuật của Maradona! Continue reading

Văn học trong thời đại toàn cầu hóa, trường hợp Chăm

Tham luận tại Hội thảo Văn học Dân tộc Thiểu số với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trong thời kì đổi mới, 18-11-2011, Lạng Sơn.

đã đăng tạp chí Sông Hương, 1-2012; tạp chí Nhà văn, 1-2012

1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta; dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

Ta không thể chối bỏ hay quay lưng lại nó, mà chỉ có thể bàn cách tiếp nhận sao cho hiệu quả nhất trong môi trường văn hóa cụ thể Continue reading

Quan điểm văn học, vài đính chính cần thiết

đã đăng Vietvan.vn, 26-12-2011

 

Thơ hay là thơ gây xúc động

Vô chiêu thắng hữu chiêu. Đâu cần phải theo khuynh hướng nào đó, bởi thơ hay đọc lên thấy hay ngay vì nó gây cho ta xúc động.

Phát ngôn đầy cảm tính này xuất hiện thường xuyên trên các bài báo, tiểu luận và phê bình văn học. Câu hỏi: thế nào là vô chiêu? Paul Klee phải “học” và “tập” nhuần nhuyễn mọi thủ pháp các trào lưu hội họa Đông Tây (hữu chiêu), sau đó mới “học” quên tất cả để trở thành “vô chiêu”. Vô chiêu không phải không có ngón võ nào trong túi! Continue reading

Thử đặt nền tảng cho phê bình văn học Việt Nam đương đại

đã đăng tạp chí Sông Hương, số 1-2011; báo Người Hà Nội, 2-9-2011.

xem Tienve.org, 20-12-2011

(bản sửa)

1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

Qua tiếp nhận phát hiện của người đi trước và bằng sự quan sát của mình về hiện tình sinh hoạt văn học Việt Nam đương đại, tôi đã một lần gọi tên mười căn bệnh phê bình, nay xin điểm mặt lại:

Phê bình bình và tán, không trên nền tảng mĩ học nào, chỉ bình tán đầy tính may rủi.

Phê bình độn giai thoại, ở đó trong một bài viết, nhà phê bình tùy tiện độn vào cơ man giai thoại cũ và mới, rất nhảm.

Phê bình chung chung, tránh né, vô thưởng vô phạt, là loại phê bình có thể áp dụng cho mọi nhà thơ, mọi tập thơ mà không sợ bị trật Continue reading

Phong trào Thơ Mới và phong trào thơ hậu hiện đại ở Việt Nam

CÀ PHÊ THỨ BẢY

 9 giờ, 5-11-2011, tại 37 Nguyễn Đình Chiểu, quận 1 – TP Hồ Chí Minh

 

CÀ PHÊ VĂN HỌC đặc biệt với chủ đề:

Phong trào Thơ mới 1936-1939 và phong trào Thơ Hậu Hiện Đại ở Việt Nam

tại Salon Văn hóa của Quán.

Diễn giả: Nhà thơ Inrasara, Nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu, nhà thơ Lý Đợi.

Chủ trì: TS Văn học Nguyễn Thị Từ Huy.

* Thường thì đi nói chuyện hay hội thảo, tôi luôn có tham luận. Nhưng khi đăng đàn, tôi phát biểu khác đi, hoàn toàn ngẫu hứng – tùy tình hình: lượng người nghe, thành phần, thời gian…

Thực tế – phần Inrasara thuyết trình (10 phút) Continue reading

Inrasara: Đối thoại văn học

tại Đại học An Giang – Long Xuyên, 6&7-10-2011

Buổi Tọa đàm cùng sinh viên, bạn văn trẻ trong tỉnh và các giảng viên Đại học An Giang trong hội trường nhỏ với lượng người nghe hạn chế (50 người) vào chiều 6-10 và Giao lưu cùng độc giả mở rộng vào buổi tối cùng ngày trong hội trường lớn hơn với lượng người nghe gấp ba – về đề tài rất rộng là văn học Việt Nam đương đại -, vẫn là quá ngắn so với nhu cầu tương tác giữa diễn giả và người nghe. Người nghe còn muốn hỏi, diễn giả triển khai chưa hết ý thì đã phải chuyển qua đáp ứng câu hỏi mới, khác. Nên nhiều khía cạnh của vấn đề hầu như vẫn còn bỏ lửng… Continue reading

Inrasara: Thơ đương đại Việt Nam, bước chuyển mạnh từ miền Trung và Tây nguyên

Tham luận: Hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền Trung, 8 & 9-10-2011 tại Thanh Hóa.

 

1. Mười năm sau đất nước thống nhất, khi các nhà thơ thế hệ chống Mỹ đã xong nhiệm vụ với hàng loạt tập thơ và trường ca sáng giá, – Mở cửa, một thế hệ thơ mới có mặt, tìm cách đổi mới thơ. Ở đó, Nguyễn Quang Thiều xuất hiện với giọng thơ lạ biệt. Từ Sự mất ngủ của lửa (NXB Lao động, H., 1992) đến Những người đàn bà gánh nước sông (NXB Văn học, H., 1995), Nhịp điệu châu thổ mới (Hội VHNT Hà Tây, 1997) sang Bài ca những con chim đêm (NXB Hội Nhà văn, 1999), Nguyễn Quang Thiều đã làm trương nở tối đa giọng thơ tìm thấy. Đây không là sự thay đổi câu chữ nhỏ lẻ có tính hình thức, mà là một cách tân mang tính mĩ học Continue reading