Vào buổi bình minh của thời Cận đại (thế kỷ 16-18), có hai nhà tư tưởng lớn người Pháp chủ trương hai con đường khác nhau và đều gây ảnh hưởng sâu đậm đến ngày nay. Một ông là Michel de Montaigne. Với ông, con đường có mục đích tự thân; đi để mà đi, thế thôi. Ông viết: “Nếu tôi lỡ bỏ qua một cảnh đẹp đáng nhìn? Thì tôi cứ quay lại, đàng nào cũng nằm trên con đường đi của tôi thôi mà! Tôi chẳng việc gì phải bám vào một con đường có sẵn, dù đó là đường thẳng hay đường cong”. Ông không chờ đợi một sự “tiến bộ” theo đường thẳng, nếu phải vì thế mà bỏ qua bao cỏ lạ hoa thơm. Tác giả của bộ Essais (1580) nổi tiếng chấp nhận và thích thú với đường vòng. Continue reading
Category Archives: Văn chương & Tư tưởng
Văn chương & Tư tưởng II-108
Con người hay khuynh hướng gắn mình với cái bên ngoài, một hạt kiến thức lép, một thần tượng hay thói tật. Cao Xuân Hoang nói: mình thấy có tay sinh viên Pháp tôn thờ Zidane, xem mình như thể người nhà Zidane để ăn nhờ ở đậu hơi hướm Zidane, nếu không thế hắn không là gì cả. Ngài giáo sư Trần Hùng gắn mình với văn hóa Chăm tổng quát, Nguyễn Dung phó tiến sĩ dân tộc học, Thụy rượu gạo xịn, nặng. Tôi còn thấy có thanh niên kia luôn hãnh diện về bệnh tim của mình nữa. Anh không là gì cả nếu anh không suy tim, phó tiến sĩ dân tộc học, văn hóa Chăm tổng quát… Không có chúng anh là con số không di động. Anh run lên khi đối mặt với nó: không là gì cả – khiếp quá! Cả tôi cũng thường bị gán nhãn mác chuyên gia triết lí văn chương Chăm. Sự quy chụp mang tính sợ hãi căn nguyên này luôn gây nỗi bất tiện. Gặp tôi, hầu như mọi người luôn tỏ vẻ quan tâm đến sức khỏe triết học Chăm, thể hiện cái hiểu biết về tư tưởng văn học Chăm, lái câu chuyện sang đề tài mà tôi luôn phải trốn chui trốn nhủi khi đứng trước đám đông này. Làm như tôi-nhà nghiên cứu-tư tưởng-triết học-của-văn học Chăm-và không là gì khác.
Inrasara, Chân dung Cát, 2006
Văn chương & Tư tưởng III-117
Người quân tử có ba điều răn: khi còn nhỏ, huyết khí chưa ổn định, cần răn ngừa về chuyện nữ sắc; đến khi tráng niên, huyết khí đang mạnh, cần răn ngừa về chuyện ham tranh đấu; đến khi về già, huyết khí đã suy, cần răn ngừa về việc muốn hơn người”. (Tử viết: “Quân tử hữu tam giới: thiếu chi thời, huyết khí định vị, giới chi tại sắc; cập kỳ tráng dã, huyết khí phương cương, giới chi tại đấu; cập kỳ lão dã, huyết khí ký suy, giới chi tại đắc”.
Khổng Tử – Luận ngữ, Quý thị, 7
Văn chương & Tư tưởng II-114
Nhưng làm thế nào có thể gọi sự vật đúng tên khai sinh sự vật, với vốn ngôn ngữ nghèo nàn như thế? Và đâu là chất kích thích sáng tác, với khoảng đón đợi vô tình như thế từ phía người đọc vô hình? Các câu hỏi loại này nói lên sự thể người hỏi vẫn còn mắc kẹt phía bờ này chân trời của kẻ thiếu Quê hương. Chưa đáo bỉ ngạn thơ ca. Một thi sĩ cư trú và canh giữ ngôn ngữ dân tộc không “chê” ngôn ngữ đó nghèo nàn hay giàu sang. Bởi biết đâu, chính sự giàu sang của ngôn ngữ bạn đang che giấu nghèo nàn bên trong nó, một giàu sang không gì hơn tố giác nỗi sa đọa ngôn ngữ của người sử dụng. Sự chộn rộn đầy nôn nóng của người làm thơ hôm nay trong sự giàu sang-nghèo nàn của ngôn ngữ thơ ca đang làm cho nỗi sa đọa kia lộ thiên đồng thời che khuất chân tướng của nó. Đã không ít thi sĩ rời bỏ bổn phận canh giữ ngôi nhà của Tính thể, mà chỉ lo chạy vạy cạnh tranh tăng giá thương hiệu trước công chúng, tự hiến mình làm nô lệ cho đám đông thụy du. Thế hệ thi sĩ thiếu Quê hương bị cuốn phăng vào cuồng lưu ngôn ngữ sa đọa, để cuối cùng chịu thao túng và trôi giạt cùng vô số đám mảnh vỡ từ chất thải của phương tiện truyền thông đại chúng đủ loại. Họ tự vuốt ve và vuốt ve nhau trong nỗi khốn cùng của kẻ mất nhà, không nơi nương tựa.
Inrasara, Hàng mã kí ức, 2011
Văn chương & Tư tưởng III-116
Trong hồn tràn lan phong phú, trong điệu ăn nói tầm phào bá láp, và trong tinh thần vô trách nhiệm của trò chơi, thứ trò chơi đùa bỡn hiện thể như trò chơi trẻ nít – chúng ta ở lại trong khoảng trống thênh thênh vây bọc tất cả mọi sự. Và chúng ta quả thật giống như những con chim của bầu trời.
Con người với tư cách là khách chơi, xuất hiện cởi mở nhất với thế giới, khi chúng ta ném tất cả mọi sự ở lại trong cõi hữu hạn.
Eugen Fink, Phạm Công Thiện dịch (ghi theo trí nhớ của Inrasara)
Văn chương & Tư tưởng III-114
Tôi nhớ có một lần — trong thời gian tôi dạy tại các trường ở El Paso — một học sinh đã hỏi tôi… thơ thì tốt cho điều gì. Và tôi sửng sốt, vì đó quả là một câu hỏi nghiêm trọng. Đó là một câu hỏi khó. Rồi thình lình một bàn tay giơ lên. Đó là một cô gái. Và tôi hỏi… “Cô nghĩ thế nào?” Và cô nói, “Để nhắc nhở cho người ta về chính cái cuộc nhân sinh của họ.” Câu nói ấy chạm vào cảm thức của tôi như một điều đầy ý nghĩa, đầy cảm xúc, đầy xót xa… Các bạn biết đấy, tôi sinh ra rồi sẽ chết đi, tôi hiện hữu, tôi có lương tâm của tôi, tôi có bản thể của tôi, chính tôi. Tôi ở đây với vũ trụ này. Có lẽ có một đấng Thượng Đế; có lẽ không có đấng Thượng Đế nào cả. Đây là thân phận của tôi, thân phận làm người của tôi. Thơ nhắc nhở cho độc giả về điều đó.
Charles Simic, Hoàng Ngọc-Tuấn dịch
Văn chương & Tư tưởng II-104
Tôi bật sáng đèn bàn, đưa cho Cao Xuân Hoang bản thảo dang dở chương Sa đọa. Anh háo hức đọc. Tôi theo dõi phản ứng trên sắc mặt anh. Kẻ mà Dhan Than cho là một sinh thể chào đời từ sai lầm có tính toán của thượng đế khi trang bị cho thứ đầu óc con buôn sa đọa, sa đọa cả khi anh nghĩ đang làm lợi cho dân tộc, cộng đồng, một cộng đồng Chakleng không bao giờ tha thứ anh đã bắt nàng Haman xinh đẹp con nhà nòi phải chờ đợi hơn hai mươi năm mà sắc mặt đáng bị đấm kia không một lần lộ cái vẻ gì gọi là áy náy, còn công khai phát ngôn rằng dân Chakleng nói riêng và cả nói chung không mảy may có nửa giọt ADN kinh doanh, nên phải học abc từ chú tiểu bán xoon móp dạy cho hiểu thế nào là làm ra tiền, giữ tiền và tiêu tiền cho phải phép, cần thiết lắm Cao Xuân Hoang này sẵn sàng bỏ chút thì giờ quý báu lấy xe con từ Sàigòn xịt về gõ đầu cho vài ba khóa kinh tế học căn bản. Mỗi người phải biết hi sinh một ít cho xã hội, anh nói.
Inrasara, Chân dung Cát, 2006
Văn chương & Tư tưởng III-113
What causes war – religious, political or economic? Obviously belief, either in nationalism, in an ideology, or in a particular dogma. If we had no belief but goodwill, love and consideration between us, then there would be no wars. But we are fed on beliefs, ideas and dogmas and therefore we breed discontent. The present crisis is of an exceptional nature and we as human beings must either pursue the path of constant conflict and continuous wars, which are the result of our everyday action, or else see the causes of war and turn our back upon them.
Xét trên phương diện tôn giáo, chính trị hay kinh tế, đâu là nguyên nhân tạo ra chiến tranh? Hiển nhiên – tín ngưỡng, dù là tín ngưỡng vào chủ nghĩa quốc gia, vào một ý thức hệ hay vào một tín điều đặc thù nào bất kì. Một khi chúng ta không tín ngưỡng mà chỉ có tâm thiện chí, tình yêu thương và lòng tôn trọng lẫn nhau, thì sẽ không có chiến tranh. Thế nhưng, chúng ta đã được dưỡng dục bởi những tín ngưỡng, những ý tưởng và những tín điều, từ đó chúng ta nuôi dưỡng sự bất hòa.
Cuộc khủng hoảng hiện nay là ngoại lệ, do đó chúng ta với tư cách con người buộc phải, hoặc theo đuổi con đường dẫn tới sự xung đột và chiến tranh liên miên và liên tục là hệ quả của hành động hàng ngày của chúng ta, hoặc nhận chân nguyên do của chiến tranh và dứt khoát quay lưng lại với chúng.
Krishnamurti, The first and last Freedom
Văn chương & Tư tưởng III-112
Ngôn ngữ và, có lẽ, văn học là những điều xa xưa hơn, thiết yếu hơn, trường cửu hơn mọi hình thức tổ chức xã hội. Thái độ kinh tởm, chua chát, hay lãnh đạm mà văn chương thường bày tỏ đối với nhà nước thì chủ yếu là một phản ứng của cái thường hằng — đúng hơn nữa, cái vô hạn — chống lại cái tạm thời, chống lại cái hữu hạn. Ít nhất, cho đến chừng nào nhà nước còn tự cho phép nó can thiệp vào những công việc của văn chương, thì đến chừng ấy văn chương có quyền can thiệp vào công việc của nhà nước.
Joseph Brodsky, Hoàng Ngọc-Tuấn dịch
Văn chương & Tư tưởng II-106
Mân ngó trân trân người phụ nữ Kinh nổi tiếng khắp vùng Chăm từng nghe chồng nhắc tên nhiều nhưng mới lần đầu gặp mặt. Chị ngạc nhiên thấy phụ nữ ăn nói thẳng thế, nhận xét sắc thế. Hay đó là cái khôn vượt trội của phụ nữ Ywơn so với Chăm mà Saman hay ca cẩm. Ngạc nhiên hơn khi hôm sau xuống làng, giáo viên trường kể Hà Vân đã đốp chát thẳng thừng với ông anh họ là giáo viên cấp III ở thị xã, khi anh này bảo các nhà nghiên cứu giống loài kên kên đói mồi đâu sà tới xác trâu văn hóa Champa rỉa rúc. Nữ phó tiến sĩ này hỏi tại sao các anh không làm loài kên kên thử lấy nửa lần cho đất nước nhờ? Các anh muốn xác trâu văn hóa Champa thối rữa trơ xương văng lạc tứ tán hay rã mục vào lòng đất ư? Continue reading