Còn không, người Cham Awal ở Campuchia?
1. Các sử gia ghi nhận Islam nhập địa Champa Ấn Độ giáo khoảng thế kỉ XI, đến thế kỉ XIV đã tạo thế đứng vững chắc trong vương quốc này. Cái mới va cham cái cũ nảy ra xung đột là khó tránh. Giải quyết xung đột, vua Pô Rômê (1627-1651) đã làm cuộc hóa giải và hòa giải độc nhất vô nhị, biến Islam thành Awal, để sống hòa đồng với Cham Ahiêr suốt mấy trăm năm đầy nguy biến.
Sau triều đại huy hoàng cuối cùng của vương quốc, con dân Cham bắt đầu đi li tán. Cuộc di tản lớn nhất xảy ra vào năm 1692, khi 5.000 gia đình Cham từ Pangdurangga thiên di qua Campuchia. Đoàn di dân được nhà vua Cao Miên lúc này bố trí ở vùng đất tốt dọc sông Mekong. Sau đó, còn nhiều cuộc di tản khác nữa.
Tại vùng đất mới này, Cham Awal dần dần chuyển sang tôn giáo Islam. Để đến cuối thế kỉ XX, người Cham ở Campuchia [bị] thay căn cước thành Khmer Islam. Lafont cho biết “Hồi giáo biến cộng đồng người Cham tại Campuchia thành một tập thể quên đi nguồn gốc chủng tộc của họ”.
Có phải thế không? Tác giả Ariya Pô Parang nghĩ và kể khác. Thực tế hôm nay cũng khác.
Người Cham Pangdurangga gọi bộ phận này là Cham Birau Chàm Mới. Gọi đại khái vậy thôi. Chàm Mới gồm cả cộng đồng Cham Islam từ Campuchia trở lại nhập vào bộ phận Cham ở An Giang trước đó, rồi giữa thế kỉ XX, thiên di vào Sài Gòn, hay nửa cuối thế kỉ XX, ra Long Khánh rồi Ninh Thuận.
2. Có phải tất cả Cham Campuchia đều theo Islam? Nhầm to! Một bộ phận khá lớn vẫn còn giữ phong tục tập quán mang từ cố quốc sang. Họ vẫn còn nhớ Kabbôn Mūk Thruh Palei, vẫn còn thuộc khá nhiều ca dao, đồng dao… Trong nhà của nhiều bậc thức giả vẫn lưu giữ nhiều ciêt sách đựng các văn bản cổ. Chỉ có điều rất lạ, là gần 300 năm qua, hiếm sinh linh Cham Awal nào trở lại Việt Nam. Chỉ có Cham Birau. Từ đó tạo hiểu lầm, từ hai phía. Cham Pangdurangga tưởng ở Campuchia chỉ có Cham Birau, còn người Bini ở đất Kur ngỡ Cham Việt Nam theo Islam hết.
Từ chuyến thăm đầu tiên đến lần thứ hai rồi thứ ba, thắc mắc chúng tôi luôn gặp phải ở đây, là:
– Con cháu Tôn Pho ngoài đó theo Islam hết rồi à? Tiếp theo là: – Cây Krek còn không?
– Không, bà con ạ. Cham Pangdurangga vẫn còn truyền lưu phong tục tập quán ông bà từ cổ xưa.
Katê năm 2011, chúng tôi dẫn năm đại diện Bini Kur về Phan Rang đi vòng các palei Cham, thăm dấu vết Krek trong sự xúc động tột cùng của mọi người. Họ hứa khi về đến đất Kur, sẽ kể lại…
3. Cham Awal ở Campuchia có bao nhiêu palei, còn bao nhiêu người?
Không ai biết đích xác. Cả người hướng dẫn chúng tôi có vẻ rành rẽ, cũng chịu. Chịu! Không quan tâm hay không thể? Không biết được. Cuộc mưu sinh đè nặng lên cuộc sống cộng đồng từng một thời tha phương này. Người lớn dù lo sinh kế, vẫn hành lễ, vẫn múa, hát, vẫn cưới chồng, gả vợ. Cái nhìn và nụ cười đám trẻ vẫn hồn nhiên, vô tư. Có sự biến, họ chịu đựng. Như đã từng chịu đựng. Chị Khotiyah đọc cho tôi ghi:
Min Màng/ Cabbāng kayau/ Athau groh gaup
Chet tapa paga+ Anük thei hia/ Bbang prôic mưda
Minh Mạng/ Nạng gỗ/ Chó sủa nhau/ Nhảy qua rào/ Con ai khóc/ Móc lòng ăn.
Thời Pôn Pốt, bà con cũng đã kéo nhau chạy như thế. Họ chạy vào rừng sâu, ăn njam pār đỡ đói.
Thei thau ka tian kau lipa/ Njam pār di ia mưng thau ka tian
Ai biết cho bụng ta đói/ Rau súng dưới nước mới hiểu lòng ta
Tạt qua gia đình tôi ở Sài Gòn để chuẩn bị ra Phan Rang, chị May Yum ở Phum Klak đã hát lên lời ai oán đó. Tiếng hát như âm vọng từ đáy lòng chị dội vào hồn tôi – tê điếng.
Họ sẽ ra sao ngày sau? Không ai biết được. Dẫu sao, điều tôi biết chắc rằng ở xứ lạ quê người, cộng đồng Cham Bini vẫn có mặt. Thỉnh thoảng giữa khoảng trống thường nhật, bất chợt nỗi nhớ mơ hồ nào đó dậy lên tận thẳm sâu tâm hồn họ. Họ biết mình từng có một miền đất, xưa, rất xưa. Nhớ, để mà lặn lội… tìm về nguồn cội.
Dường như sứ mệnh của con người trên mặt đất này là nhớ, – ai đã nói thế?!