(chủ đề Bất an Dự án Nhà máy Điện hạt nhân – Ninh Thuận)
Ngày mai 11-3-2012, thế giới nhìn lại thảm họa Fukushima kinh hoàng tại Nhật Bản. Năm 2014, Việt Nam dự định khởi công xây dựng Nhà máy Điện Hạt nhân đầu tiên tại Ninh Thuận.
Để giúp bạn đọc biết qua vài phản biện về chương trình này, đồng thời để bà con Chăm “an tâm”, Inrasara.com xin trích dẫn 4 ý kiến của trí thức hàng đầu Việt Nam hiện nay được đăng tải trên báo chí trong nước và thế giới, để hầu bạn đọc:
Bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc, bài trả lời phỏng vấn của Giáo sư Phạm Duy Hiển- nguyên Viện trưởng Viện nguyên tử Đà Lạt, ý kiến của Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn – Nguyên Cố vấn chiến lược của Tập đoàn Điện tử Pháp Electricité de France, ý kiến của GS Nguyễn Minh Thuyết – Cựu Đại biểu Quốc Hội.
Chúng ta là người ngoại đạo (ít hiểu biết về hạt nhân) nhưng là người trong cuộc (cư trú nơi sắp có Nhà Máy điện Hạt nhân) nên chưa vội ý kiến “phản hồi” về chương trình này.
Inrasara
1.
“Bây giờ không có gì là muộn. Muốn dừng thì dừng ngay, chứ có cái gì đâu. Bao giờ đã xây rồi, lúc đó anh tháo gỡ một nhà máy đã chạy, anh sẽ tốn kém hàng chục tỷ (đô-la), anh tốn ba, bốn, năm chục năm mới tháo gỡ xong.
“Hiện chưa làm gì hết, năm 2014 mới bắt đầu xây, mới chỉ thỏa thuận trên nguyên tắc thôi, chứ đã ký kết mua bán xong gì đâu mà không cho rút lui. Bây giờ vẫn còn thì giờ để rút lui và tôi xin cam đoan là Chính phủ thế nào cũng rút lui. Không thể nào đi tiếp được, bởi vì đi tiếp thì nó sẽ là Fukushima đấy.”
Gs Nguyễn Khắc Nhẫn, BBC Tiếng Việt, 2-3-2012
2.
“Về dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận, khi bàn thảo ở Quốc hội, tôi cho rằng không đáng phải phiêu lưu về sự an toàn và về cả an toàn kinh tế để mở ra hai nhà máy mà chỉ đóng góp có 4% tổng năng lượng quốc gia.
“Sau khi tôi đã có ý kiến như vậy, tôi thấy có rất nhiều chuyên gia đã phân tích rất sâu về sự tốn kém và sự không an toàn của điện hạt nhân. Và hiện nay, xu hướng ở trên thế giới, người ta cũng bỏ dần điện hạt nhân.
“Khá nhiều quốc gia đã đình chỉ, tiến tới gỡ bỏ các nhà máy điện hạt nhân. Không có lý do gì mà chúng ta cứ cố kiết làm một việc đi ngược lại xu hướng chung của khoa học kỹ thuật thế giới như vậy, mà những khả năng xảy ra mất an toàn cũng rất dễ.”
“Chúng ta đã thấy Nhật là một đất nước tiên tiến như thế nào, nhưng chỉ một trận sóng thần của họ đã làm cho nhà máy hạt nhân ở Fukushima trở nên mất an toàn và làm cho Nhật thay đổi chính sách về điện hạt nhân.
“Chúng tôi nghĩ rằng cần thay đổi tư duy. Nếu những điều đã đưa ra trong nghị quyết của Quốc hội, của Đảng, bây giờ so sánh với thực tế có những điều không phù hợp nữa, thì mình có thể thay đổi”
Gs Nguyễn Minh Thuyết, BBC Tiếng Việt, 4-3-2012
3.
Gs Phạm Duy Hiển: Xây dựng nhà máy điện hạt nhân mà chưa nắm được công nghệ thì nên hoãn
Thu Hà thực hiện – Báo Văn nghệ trẻ, số 23, 6-6-2011
Chỉ còn 3 năm nữa (năm 2014) nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) Ninh Thuận 1 sẽ chính thức được khởi công. Theo lộ trình đến năm 2020 sẽ chính thức phát điện thương mại.
Theo khuyến cáo của các nhà khoa học cứ 1MW điện công suất tương đương với một nhân lực. Như vậy, đặt giả thiết nếu Việt Nam xây lò 1.000MW, sẽ phải cần tới 1.000 nhân lực cho tất cả các bộ phận. Trong số đó cần có từ 200 – 300 chuyên gia. Đó là xét trên mặt lý thuyết, còn thực tế dư luận xã hội đang đặt câu hỏi, vậy Việt Nam đang có những lợi thế gì để có thể xây dựng và vận hành thành công nhà máy điện hạt nhân? Nhất là trong giai đoạn hiện nay đối tác thứ hai của Việt Nam – Nhật Bản – đang dần hé lộ những thông tin chưa từng công bố về sự lúng túng của Chính phủ, quan chức Nhật Bản trước sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1…; cùng thời điểm này, Đức, Thụy Sĩ là những cường quốc về điện hạt nhân đã chính thức tuyên bố chấm dứt điện hạt nhân… Tất cả những sự kiện này đã tác động đến người dân Việt Nam. Một lần nữa câu hỏi “nên hay không nên xây dựng nhà máy điện hạt nhân” lại trở nên nóng hơn bao giờ hết. Văn nghệ trẻ đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Phạm Duy Hiên – nguyên Viện trưởng Viện nguyên tử Đà Lạt – xung quanh vấn đề này.
*
Vì sao VN vẫn kiên trì xây dựng nhà máy điện hạt nhân, việc xây dựng này có lợi gì thưa ông?
Phạm Duy Hiển: Nói về điện hạt nhân (ĐHN), lâu nay trong công luận trên thế giới luôn có hai phe, ủng hộ và chống đối. Các chính phủ cũng vậy. Ngay trong giới khoa học cũng thế, có nhiều nhà khoa học hạt nhân lại cương quyết phản đối ĐHN. Vấn đề thật không đơn giản để chỉ nói ngắn gọn như chị vừa nêu. Những người phản đối và ủng hộ ĐHN đều có những lý do xác đáng. Hai luồng ý kiến trái chiều này thể hiện ĐHN có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Một số nước như Pháp, Nhật đã từng xem ĐHN đóng vai trò trụ cột trong chương trình phát triển năng lượng của mình. Song nhiều nước văn minh khác lại không chấp nhận. Đâu có phải vì dân trí của họ thấp.
Trước Fukushima đã như vậy, sau Fukushima phía chống đối càng có chứng cứ để mạnh lên và tác động đến nhiều quốc gia. Đức là một ví dụ, trước đây Chính phủ Đức đã nói không với ĐHN, nhưng sau đó họ nhận thấy nếu không tiếp tục duy trì các nhà máy điện hạt nhân thì sẽ không đủ điện cho nền kinh tế nên họ đã kéo dài thời hạn cho một số nhà máy cũ. Tuy nhiên vừa qua chính phủ Đức lại tuyên bố chấm dứt hẳn ĐHN trước 2020. Sau Đức là Thụy Sĩ, và ngay cả Nhật Bản cũng đã quyết định sẽ tạm dừng phát triển ĐHN.
Nhưng Mỹ, Nga và Pháp thì vẫn kiên trì theo đuổi ĐHN, và để trấn an dân chúng họ hứa sẽ nâng chuẩn mực an toàn lên cao hơn… Các nước đang phát triển như Trung Quốc và Ấn Độ cũng sẽ theo đuổi ĐHN.
Nói tóm lại, nên làm ĐHN hay không tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Không có một công thức nào chung cho toàn thế giới được xem như chân lý. Nhất là tư duy theo hai thái cực: hoặc loại bỏ hoàn toàn, hoặc xem ĐHN là con đường độc nhất vô nhị.
Ông có thể nói rõ hơn? Và cụ thể Việt Nam nên theo công thức nào?
Phạm Duy Hiển: Nước nào làm ĐHN cũng đều xuất phát từ một số ưu thế nhất định mà họ sẵn có. Mỹ, Nga, Pháp, Đức là quê hương của khoa học hạt nhân, công nghệ ĐHN cũng ra đời từ các nước này. Đó là chưa kể họ có nhiều lợi thế khác của những nền công nghệp tiên tiến. Trung Quốc, Ấn Độ đi sau, nhưng cũng đã có vũ khí hạt nhân, một loại đỉnh cao trong công nghệ hạt nhân. Họ có đội ngũ vừa đông, vừa giỏi, họ có những đỉnh cao để có thể giải quyết bài toán ở tầm quốc gia. Và họ đã chọn con đường ĐHN bởi biết chắc sẽ sớm làm chủ được công nghệ này. Và họ đã thành công.
Việt Nam ta chẳng có bất cứ một lợi thế nào về ĐHN cả. Tài nguyên uranium hầu như không có. Tri thức khoa học công nghệ còn ở mức a, b, c. So với những nước đang vận hành nhà máy ĐHN thì trình độ đội ngũ của chúng ta còn quá thấp kém. Tiền bạc phải đi vay mượn, đâu có sung túc như mấy nước A rập thuê người nước ngoài làm tất. Cơ sở hạ tầng công nghiệp quá thấp, chỉ có sức lao động giản đơn là không phải nhập từ nước ngoài. Trình độ quản lý và kỷ luật công nghiệp hiện đại còn lâu mới xứng tầm với ĐHN, tai nạn lao động xảy ra liên tục, mọi nơi. Lại thêm vấn nạn tham nhũng và lợi ích riêng, ĐHN đâu phải là ốc đảo để tránh được vấn nạn này. Những ngày qua nhiều thông tin từ nước Nhật cho thấy thảm họa trầm trọng thế nào khi ĐHN bị nhóm lợi ích thao túng hệ thống chính quyền. Mà đó là ở một nước văn minh như Nhật Bản. Nhiều nhà khoa học hạt nhân trên thế giới chông đối ĐHN cũng vì lý do này.
Hóa ra chúng ta không có bất cứ một lợi thế nào?
Phạm Duy Hiển: Cái chúng ta hiện có chỉ là ý muốn làm ĐHN ở một số người. Mà một khi ý muốn trở thành duy ý chí, nhất là trong điều hành chỉ đạo, thì ta không nhận ra những khó khăn thách thức, không biết mình là ai. Nguy hiểm! ĐHN có an toàn hay không chính là ở chỗ này, chứ đâu phải là cụng nghệ thế hệ hai, ba hay bốn. Chủ quan, coi thường tri thức KHCN mà chỉ luôn hô hào an toàn tuyệt đối, 100%, sẽ làm cho toàn bộ hệ thống tê liệt, ngủ quên giữa ban ngày, ắt sẽ dẫn đến những kịch bản tồi tệ.
Sau Fukushima, một số người muốn trấn an công chúng bằng cách khoác lác rằng chúng ta sẽ có công nghệ tiên tiến hơn, và động đất hay sóng thần ở nước ta sẽ không dữ dội như ở Nhật. Trên thực tế, chưa có công nghệ ĐHN nào được xem là an toàn tuyệt đối cả. Mà cái khái niệm an toàn tuyệt đối là vô nghĩa, chỉ những ai thất học mới nghĩ vậy. Cái lý thuyết xác suất xảy ra sự cố ĐHN “một lần trong hàng triệu năm” hầu như đã phá sản sau ba sự cố lớn liên tiếp xảy ra trong vài thập kỷ.
Thế mà giờ đây các tập đoàn ĐHN vẫn tiếp tục quảng cáo cho cái xác suất ấy. Họ còn thi nhau nâng thời gian chịu đựng mất điện của nhà máy do sóng thần. ĐHN sẽ đắt lên do phải chạy theo những công nghệ “tiên tiến” ấy. Nhưng đâu có phải cứ đợi đến động đất hay sóng thần mới xảy ra thảm họa. Tai nạn ĐHN có thể xảy ra theo nhiều kịch bản khác. Chuyện này thì người ta cố tình phớt lờ.
Trên hết, ĐHN có an toàn hay không, nhất là ở những nước như Việt Nam, là do con người quyết định (bao gồm cả hệ thống quản lý), chứ không phải do máy móc. Tôi đã từng đưa ra thí dụ. Trước một hành trình dài bạn được quyền chọn một trong hai chiếc xe. Chiếc thứ nhất đời mới, rất hiện đại với tài xế có tấm bằng dởm. Bạn sẽ không dại gì mà ngồi vào đó. Bạn sẽ chọn chiếc thứ hai, tuy đời cũ nhưng ngồi trước vô lăng là một tài xế chuyên nghiệp.
Làm ĐHN mà không đủ tri thức để từng bước làm chủ công nghệ, lại thích xây ào ạt, 16 lò trong 10 năm, thì chỉ còn cách lệ thuộc hoàn toàn vào người nước ngoài. Trong hoàn cảnh ấy, ĐHN rất có thể trở thành một thứ con tin chính trị khi ai đó muốn gây sức ép lên chúng ta.
Vậy GS có kiến nghị cụ thể gì?
Phạm Duy Hiển: Nên tạm lùi thời hạn 2020 lại ít nhất là mười năm. Trong thời gian này tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng về nhân lực. Chừng nào chưa có ít nhất 100 chuyên gia thứ thiệt, và một hệ thống điều hành tốt trong ngành hạt nhân để họ phát huy năng lực của mình, thì chưa nghĩ đến chuyện bắt đầu. Chưa kể các điều kiện khác đều phải đạt đến khối lượng tới hạn về tài chính, hạ tầng công nghiệp đủ sức tiêu hóa được công nghệ ĐHN, và nhất là niềm tin của công chúng, yếu tố số một bảo đảm sự thành công.
Nghĩa là không từ bỏ hoàn toàn như nước Đức?
Phạm Duy Hiển: Không, ta không nên ưu tiên ĐHN bằng cách định kế hoạch 2020 vận hành tổ máy đầu tiên, sau đó xây một lèo 16 lò phản ứng trong 10 năm. Nhưng ĐHN vẫn nên xem là một thành phần trong cơ cấu năng lượng đa dạng sau 2030. Tôi nói thế không phải với tư cách một trong hai người được nhà nước giao nhiệm vụ xây dựng ngành này cách đây 35 năm, cho nên tôi phải theo đuổi nó. Nhưng tôi tin rằng, rồi ra, ĐHN sẽ vượt qua những khó khăn hiện nay để được công chúng đón nhận hơn, ngay cả ở Việt Nam.
Vậy giải quyết vấn đề thiếu điện hiện nay bằng cách nào?
Nhà nước cần tổ chức nghiên cứu bài toán năng lượng một cách khoa học, khách quan, đừng duy ý chí, đừng để những nhúm lợi ớch thao tỳng. Chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra giải phỏp.
Về phần mình, tôi đã phát biểu rất nhiều lần rồi. Chúng ta sử dụng điện năng rất không hiệu quả. Hàng năm điện tăng với tốc độ gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP là chuyện không thể chấp nhận được. Ở các nước khác, tốc độ tăng điện chỉ bằng hoặc thấp hơn tốc độ GDP. Bao nhiêu công trình tiêu tốn điện năng không hiệu quả, hoặc do công nghệ lạc hậu, hoặc không có luận chứng thuyết phục. Tiền của, nguồn lực đổ vào xây nhà máy điện, giống như đổ xăng vào một bình thủng đáy. Hãy đi tìm lỗ thủng, bịt chúng lại, và đây chính là giải pháp cơ bản cho bài toán thiếu điện. Tất nhiên còn có những giải pháp khác.
– Cảm ơn ông đã trả lời phỏng vấn.
*Tuy nhiên sau hàng loạt sự cố liên tiếp xảy ra tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1 của Nhật Bản, Việt Nam vẫn sẽ tiến hành xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận như dự kiến… Phó Cục trưởng cục Năng lượng nguyên tử, ông Hoàng Anh Tuấn, cho rằng, sự cố hạt nhân ở Nhật Bản một lần nữa cho chúng ta cân nhắc kỹ hơn các điều kiện hiện có để xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Những vấn đề chọn địa điểm xây dựng, cần phải xem xét lại. Bên cạnh đó, các thiết bị ngoại vi như thiết bị dẫn điện cũng cần được tính toán kỹ hơn. Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng cũng cho rằng sẽ cho làm luận chứng về việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân,, nếu thấy không an toàn thì thôi…
4.
Nguyên Ngọc: ĐIỆN HẠT NHÂN: NÊN HAY KHÔNG NÊN VÀ BAO GIỜ?
Tôi có quyền biết sự thật…
Báo Người Lao động, 25-6-2004
Sau khi Báo NLĐ Cuối tuần (ngày 19-6) đăng chuyên đề “Điện hạt nhân: Nên hay không nên và bao giờ?”, chúng tôi có nhận được ý kiến của các nhà khoa học, của bạn đọc. Trong số báo này, chúng tôi xin trích đăng ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc. Các tựa lớn và nhỏ do tòa soạn đặt
Khoảng đầu năm nay tôi có được đọc bài “Điện hạt nhân, vì sao phải vội?” của Phạm Duy Hiển đăng trên Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật (ngày 11-1- 2004). Theo chỗ tôi được biết, tác giả Phạm Duy Hiển là một nhà vật lý hạt nhân hàng đầu ở nước ta. Và đây không phải là lần đầu tiên ông lên tiếng về vấn đề quan trọng và nhạy cảm này vốn được nhiều người không chỉ ở trong nước quan tâm. Trước đây mấy năm, ông đã viết một bài rất ấn tượng nói rõ trong tình hình nước ta hiện nay (“hiện nay” ở đây có thể là mươi hay vài mươi năm nữa) chưa nên vội “dan díu” với chuyện này, sẽ lợi bất cập hại.
Điện hạt nhân: Lối thoát duy nhất?.- Ít lâu sau bài viết của Phạm Duy Hiển, Thời báo Kinh tế Sài Gòn trong hai kỳ liên tiếp đã đăng một bài viết công phu của tiến sĩ Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên cố vấn Nha Kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris, giáo sư Trường Đại học Bách khoa Grenoble (Pháp), phân tích cặn kẽ tại sao chưa nên làm điện hạt nhân ở Việt Nam.
Riêng trong bài viết đăng trên Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật nói trên, tác giả Phạm Duy Hiển không chỉ dừng lại ở một vấn đề cụ thể về điện hạt nhân, có nên làm điện hạt nhân ở nước ta hiện nay hay chưa. Qua câu chuyện về một nhà máy điện hạt nhân nghe nói dự kiến có thể được xây dựng đâu đó ở Ninh Thuận vào năm 2017, ông đề cập đến một vấn đề khác, chung hơn và có lẽ còn quan trọng hơn: chuyện những tổ chức nước ngoài nào đó dẫn ý kiến của “các chuyên gia đầy uy tín” khuyên nhủ, thuyết phục công luận rằng nên nhất nhất làm theo họ, đầu tư vào những công trình có thể tốn hàng nhiều tỉ đô la, bất chấp hậu quả cụ thể có thể dẫn đến đâu. Các vị “chuyên gia đầy uy tín” lần này là một cái gọi là Diễn đàn nguyên tử Nhật Bản. Gần đây họ sang tổ chức ở ta một cuộc trình diễn được tuyên truyền khá ồn ào, trong đó họ chủ yếu nêu cao hai điều.
Thứ nhất, họ đe chúng ta rằng Việt Nam sắp thiếu năng lượng đến nơi rồi, từ một nước xuất khẩu năng lượng các anh đang có nguy cơ trở thành nước phải nhập khẩu năng lượng. Lối thoát duy nhất: cần nhanh chóng xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Thứ hai: Điện hạt nhân rất an toàn, kinh nghiệm của chính Nhật Bản đấy, chẳng có gì phải lo.
Trong khi đó sự thật là như thế nào? Phạm Duy Hiển viết: “Ai dám đoan chắc với dân chúng rằng sau mười năm nữa Việt Nam sẽ phải nhập khẩu năng lượng?… Nhiều người tin rằng tiềm năng về than, dầu mỏ, khí đốt của ta cộng với các giải pháp tiết kiệm năng lượng vẫn còn đủ để chưa cần đến điện hạt nhân ít nhất là trước năm 2030”.
Vả chăng, như tác giả Phạm Duy Hiển nói rõ trong bài viết của mình: Cứ giả như chúng ta sắp phải nhập khẩu năng lượng đi nữa, thì đã sao nào? Chẳng phải chính Nhật Bản là nước chủ yếu nhập khẩu năng lượng mà vẫn là một nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới đó sao?
Thứ hai: Điện hạt nhân ở Nhật Bản, như bất cứ người nào ít nhiều có theo dõi báo chí đều có thể biết rõ, chẳng hề an toàn như vị khách đến trình diễn nọ cố tình khoe khoang. Với một trình độ và một kỷ luật công nghiệp nổi tiếng thế giới, họ cũng đã từng phải chịu hàng chục vụ tai nạn hạt nhân, có vụ đã đưa đến chỗ phải đóng cửa toàn bộ 17 lò phản ứng của TEPCO, tập đoàn sản xuất điện lớn nhất nước Nhật…
Quan điểm: Điện hạt nhân là nguồn năng lượng quan trọng. Vấn đề là an toàn hạt nhân. Người dân có quyền yêu cầu một quy trình công nghệ an toàn gần như tuyệt đối.
Nghề chào hàng mà lại!.- Việc cái diễn đàn kia hăng hái đến tổ chức cuộc trình diễn nọ và “chân thành” cho ta những lời khuyên nhủ tha thiết đến thế, nói cho cùng cũng là chuyện thường tình thôi. Nghề đi chào hàng mà lại! Vấn đề là ở chỗ có người chào hàng thì cũng có người dắt hàng, chứ sao, trong nghề buôn bán làm sao có anh này mà không có anh kia! Hãy xem các cơ quan và tổ chức có trách nhiệm của chúng ta tiếp nhận những lời chào mời đường mật đó như thế nào? Họ cố tình để cho các phương tiện truyền thông ra sức khuếch trương những rêu rao của “các chuyên gia nước ngoài”, làm cho dư luận yên trí rằng chuyện làm điện hạt nhân như thế coi như là đã xong, chỉ còn việc tính thêm đôi chút cụ thể bao giờ làm, làm cụ thể ở đâu. Còn họ thì im lặng một thời gian khá dài, cố tình làm như không hề biết đến những tiếng nói của ngay những chuyên gia trong chính ngành này. Họ chơi chiến thuật im lặng… Rồi gần đây, có lẽ cho rằng hiệu quả những vụ tuyên truyền kia đã khá ngấm, bỗng nhiên lại thấy họ ra quân rầm rộ, nào viết báo, nào tuyên bố nơi này nơi nọ, nào làm “bàn tròn khoa học” trên vô tuyến truyền hình truyền đi khắp nước và lại tổ chức triển lãm, lần này rầm rộ hơn, ngay giữa thủ đô, có thêm bốn đối tác mới đến chào hàng ngoài vị đã đến rao hàng lần trước… Họ đã từ bỏ chiến thuật im lặng chăng? Không đâu. Vẫn là chiến thuật im lặng, nhưng là theo kiểu khác: nói, thậm chí nói rất nhiều, nhưng cũng như không nói. Nói vào chỗ trống không, hoàn toàn lờ đi, không trả lời đúng vào những vấn đề nhạy cảm nhất mà những người phản bác họ đã nêu ra, giả tảng đi như hoàn toàn không hề nghe thấy, không hề có những phản bác của các chuyên gia đó. Họ tranh thủ công chúng không biết chuyên môn bằng những lời to tát và bằng những thuật ngữ rất chi là bác học, thuyết giảng hùng hồn và đầy tự tin và coi như chỉ còn một ít băn khoăn lo lắng của những người không biết gì về khoa học hiện đại của họ mà họ dẹp một lần này nữa là xong. Có vẻ như họ đang quyết dọn dư luận lần cuối cùng để bắt đầu ra tay đến nơi.
Trả lời của tiến sĩ Nguyễn Khắc Nhẫn.- Rất may sự việc chưa chịu dừng ở đó. Tiếp theo bài báo quan trọng đã đăng trước đó, trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 27-5-2004 tiến sĩ Nguyễn Khắc Nhẫn lại đã có bài ngắn gọn nhưng rõ ràng nêu lại những ý kiến chính của mình về vấn đề cực kỳ quan trọng này và trả lời chính xác vào từng điểm một những lý lẽ của ông đương kim viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử (VNLNT) Việt Nam:
– Cho đến năm 2030, nước ta không có vấn đề về cân bằng năng lượng như VNLNT nói. Trong khi tính toán nhu cầu năng lượng của nước ta mấy chục năm đến, VNLNT đã quá lạc quan về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam từ đó dẫn đến nhu cầu tăng trưởng năng lượng (14-15%/năm), trong khi lại quá bi quan về các nguồn năng lượng thiên nhiên trong nước. Trong tương lai – và điều này cũng đã thể hiện rõ trong mấy năm lại đây rồi – tốc độ tăng trưởng chỉ có thể đạt trung bình 7%/năm, tức nhu cầu năng lượng cũng phải được tính theo đó. Tiềm năng năng lượng cổ điển nội địa của ta do vậy có thể đáp ứng nhu cầu đến năm 2030. Còn nếu cứ cho đúng như dự tính của VNLNT, đến năm 2020 nước ta sẽ thiếu từ 36-65 tỉ KWh và năm 2030 từ 119-188 tỉ KWh và mỗi năm ta xây 2 lò điện hạt nhân (ĐHN) cho trung bình 12 tỉ KWh, thì để bù lại chỗ còn thiếu chẳng lẽ ta phải xây từ 6 đến 11 lò cho đến năm 2020 và đến năm 2030 phải có 20 đến 31 lò. Xây bằng phương tiện nào? Vậy rõ ràng ĐHN không giải quyết được vấn đề cân bằng năng lượng cho đất nước. Và chúng ta sẽ phải phụ thuộc nước ngoài lâu dài về thiết bị, nhiên liệu, kỹ thuật, lưu giữ chất phóng xạ. .., tức cũng không có an ninh năng lượng.
– Không phải chỉ có con đường phát triển ĐHN mới tăng cường mạnh được tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia- ông viện trưởng nói, nó là một lĩnh vực khá riêng biệt vì tính an toàn rất cao (nên đòi hỏi rất nhiều kinh phí). Nó cũng chỉ là một phần của ngành năng lượng.
– Thật quá lạc quan khi tuyên bố “với công nghệ ĐHN hiện nay sẽ không có tai nạn kiểu Tchernobyl”. Không có công ty nào trên thế giới lúc bán lò hạt nhân cho ta dám ký hợp đồng bảo đảm sẽ không có tai biến lớn xảy ra xếp ở cấp 7, cao nhất của thang độ, như kiểu Tchernobyl. Vả chăng nếu quả thật “các lò phản ứng thương mại hiện nay đã đạt đến độ an toàn rất cao”, “cho đến nay chúng ta mới nghe nói đến một vài sự cố”(!), thì tại sao nhiều nước lại phải tính bỏ ra hàng nhiều tỉ đô la để trang bị loại lò mới dự tính đến vài chục năm nữa mới có? Lại nữa: Suốt nửa thế kỷ khoa học đã không tìm ra giải pháp để chôn cất an toàn chất thải phóng xạ dài ngày, làm sao ông viện trưởng VNLNT lại dám đoan chắc đến năm 2050, tức là theo ông đến lúc ta phải chôn chất thải, chắc chắn sẽ không còn vấn đề gì trong chuyện xử lý này nữa? Lại bảo rằng “chất thải sẽ không còn phóng xạ” thì đúng là coi thường hiện tượng vật lý…
– Ông viện trưởng VNLNT cũng đưa ra nhiều thông tin không chính xác về xu hướng phát triển ĐHN hiện nay trên thế giới, xu hướng đó là đang giảm chứ không phải đang tăng như ông nói. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, tổng công suất ĐHN thế giới hiện nay là 358.000 MW sẽ hạ xuống còn 320.000 MW vào năm 2030. Nhiều nước châu Âu như Đức, Thụy Điển, Bỉ, ý, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ… đã tuyên bố rút hoặc không hưởng ứng phát triển ĐHN nữa.
Trong bài viết của mình, tiến sĩ Nguyễn Khắc Nhẫn cũng vạch rõ một điều đáng chú ý: “Nhiều nhóm thế lực (lobby) quốc tế đã đầu tư quá nhiều tỉ đô-la Mỹ vào lĩnh vực hạt nhân nên lợi dụng việc chống hiệu ứng nhà kính để cứu vãn tình trạng khủng hoảng kéo dài từ 25 năm nay, bằng cách nêu khẩu hiệu ĐHN góp phần giải quyết môi trường”. Nói nôm na ra là họ cố ý thổi phồng tác hại của hiệu ứng nhà kính, rồi rêu rao ĐHN “sạch” hơn các loại năng lượng khác để rao bán những cái của nợ của họ mà họ trót tiêu tốn quá nhiều tiền của đầu tư nay đã bị khủng hoảng.
Tôi cũng được đọc trong một bài viết của ông đương kim viện trưởng VNLNT nhận định sau đây: “Những ý kiến cho rằng chúng ta không thể quản lý vận hành nhà máy điện hạt nhân trong tương lai là không có cơ sở khoa học… Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt – một mô hình thu nhỏ của nhà máy điện hạt nhân do Mỹ bỏ lại sau chiến tranh – đã được chúng ta khôi phục, cải tiến, bảo dưỡng, vận hành an toàn và khai thác có hiệu quả trong 20 năm qua, là một bằng chứng sinh động…”. Tôi có đem điều này hỏi lại ông Phạm Duy Hiển, là người đã khôi phục chính cái lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt ấy và làm giám đốc ở đấy suốt hàng chục năm. Ông cho biết: Đấy là hai việc hoàn toàn khác nhau. Lò Đà Lạt là một lò nghiên cứu loại nhỏ, chỉ có công suất 500 KW nhiệt năng, còn một nhà máy điện hạt nhân thì công suất đến 5.000.000 KW nhiệt năng, khác nhau một trời một vực!
Tiếng nói của một công dân bình thường.- Trong chuyện ĐHN, cũng như rất nhiều người khác trong nước bây giờ, tôi là người ngoại đạo, chẳng có chút hiểu biết chuyên môn gì. Nhưng là một công dân bình thường, khi được nghe những nhà vật lý có uy tín và có chuyên môn sâu về lĩnh vực này có ý kiến, thì tôi nghĩ tôi có quyền được biết sự thật ở đây thực ra là thế nào, tôi có quyền đòi hỏi những người có trách nhiệm trực tiếp trong việc này trả lời cụ thể thẳng vào những ý kiến đó, không được giả tảng lờ đi.
Đó là quyền dân chủ sơ đẳng.
Hay lam. Tri thuc Cham da vao cuoc. Nhan dan can biet su that. Xin cam on
Bà con, anh chị em Chăm và bạn đọc thân mến!
Sau khi bài này đăng lên, tôi nhận được 9 phản hồi từ độc giả.
Như đã thưa trước, về Nhà máy Điện hạt nhân tại Ninh Thuận, chúng ta là người ngoại đạo nên xin không “phản hồi”. Nếu được, các bạn có thể gửi thư riêng đến Inrasara@yahoo.com.
Riêng cá nhân tôi, từ năm 2004, tôi đã đọc hơn 200 bài viết chuyện sâu trong và ngoài nước, tiếng Việt lẫn tiếng Anh của các chuyên gia đầu ngành cũng như giới trí thức – ủng hộ có, nghi ngại có, phản đối cũng có. Tôi cũng từng đi xem Triển lãm quốc tế Điện hạt nhân ở Hà Nội 25-10-2010 và nhận được nhiều tài liệu, nhưng có thể nói, đến hôm nay, tôi vẫn chưa tin tưởng vào khả năng hiểu biết của mình về sự vận hành của một nhà máy điện hạt nhân ra sao.
Như vậy, chúng ta chỉ chờ đợi vào tiếng nói của Đại biểu Quốc hội Chăm. Và điều quan trong hơn là các bạn có thể viết thư gửi đến Đàng Thị Mỹ hương, theo địa chỉ nhà riêng hay cơ quan của vị Đại biểu này để bày tỏ ý kiến của mình, như là một công dân có trách nhiêm.
Kính mến
Inrasara
Cei Sara noi hay lam. Can phai bay to y kien cho dai bieu Cham.
Hoan Ho
(…)
Anh YC thân mến
Không vấn đề gì lớn đâu anh. Đất nước Việt Nam cần có tiếng nói phản biện, miễn là nó xuất phát từ tinh thần xây dựng lành mạnh.
Về phần Inrasara cũng vậy, Sara phản biện nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tôi tin không có gì xảy ra cho tôi cả, vì tôi nói bằng thiện tâm và nhất là, không quá khích.
Về bản dịch của anh, sẽ xem lại và đăng sau nhé.
Inrasara
ĐHN là chuyện lớn, chúng ta đồng ý chương trình điện khí hóa, hạt nhân hóa quốc gia. Nhưng nên đề nghị Nhà nước các điểm sau:
– Dân tộc Chăm rất ít, nhưng tập trung ở Ninh Thuận. Nếu VN xấy dựng ở đây e thiệt nhiều mặt. Và nước ngaofi nghĩ ta muốn tiêu diệt người Chăm.
– Dân tộc Chăm là người bản địa và đây là vùng đất thiêng liêng và bản sắc văn hóa của họ. Nếu ta xây dựng ở đây, sẽ có vấn đề về bảo tồn văn hóa của UNESSCO.
Đề nghị Thủ tướng xem lại dự án này. Có thể dời vào vùng nào ít dân cư hơn. Tôi có phone cho nhà thơ Inrasara như vậy.
Pingback: Trí thức Chăm và ĐHN «