Văn học liên quan đến ngôn ngữ và chữ viết.
1. Chữ viết
Chữ Trung Hoa ra đời vào thời Nhà Thương khoảng năm 1500.b Công nguyên.
Chữ Nôm [Việt] cấu trúc dựa trên chữ Hán [Trung]. Ban đầu nó mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ, gọi là chữ “giả tá”; sau đó mới nghĩ ra cách ghép hai chữ Hán với nhau: một gợi âm và một gợi ý, gọi là “hài thanh”.
Với tư cách hệ thống văn tự, chữ Nôm xuất hiện sau tk XI.a Công nguyên. Dấu ấn rõ: Bia ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173), bia chùa Tháp Miếu, huyện Yên Lãng (nay thuộc Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (1210).
Đến Hàn Thuyên thời nhà Trần mới gọi là có sáng tác. Văn học chữ Nôm phát triển mạnh từ tk XVII-XIX, sau đó bị chữ Quốc ngữ thay thế.
Chữ Ấn Độ xuất hiện vào khoảng 1900.b Công nguyên.
Chữ Cham cổ, Bia Đông Yên Châu thuộc hệ thống bia ở Trà Kiệu viết bằng chữ Cham cổ sớm nhất (G. Coedès, 1939), mượn hệ thống chữ viết Devanagari của Ấn Độ.
Còn chữ Akhar thrah chỉ định hình vào thời Po Rome (1627-1651) dùng đến ngày nay.
2. Văn học Ấn Độ & Trung Quốc
Ấn Độ, là 2 sử thi khủng của nhân loại.
Sử thi Mahabhārata, gồm 110.000 sloka (câu thơ đôi) tk IV.b Công nguyên. Sử thi không thuần là anh hàng ca mà còn bao gồm cả triết lý, luân lí đạo đức và cả chuyện đời thường, kết thúc luôn bằng cái chết của người anh hùng.
Sử thi Rāmāyaṇa gồm 24.000 câu, xuất hiện từ tk IV-II.b Công nguyên, và Valmiki được cho là tác giả của sử thi. Rāmāyaṇa có thể được hiểu là “cuộc du hành của Rāma”. Hoàng tử Rāma xứ Ayodhya, vợ là Sita, bị Quỷ vương Rākshasa vua xứ Lanka bắt. Chủ đề xoay quanh chuyện tình của Rāma và nàng Sita.
Trung quốc, 4 kiệt tác được biết nhiều: Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung và Thủy Hử của Thi Nại Am, tk XIV.a; Tây du kí của Ngô Thừa Ân, tk XVI; Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần giữa tk XVIII.
Riêng về kinh như Đạo Đức kinh của Lão Tử, Nam Hoa kinh của Trang Tử xuất hiện sớm hơn: tk VI-VIIb Công nguyên.
3. So sánh
Cham, sáng tác sử thi mạnh nhất là vào tk XVI-XVII: như Akayet Dewa Mưno, Akayet Inra Patra, ảnh hưởng cốt truyện Ấn Độ, và thế giới Mã Lai. Tác phẩm thường ngắn (trên dưới 500 ariya câu thơ cặp đôi), kém xa các sử thi Ấn Độ.
Tác phẩm nổi tiếng nhất được biết đến hiện nay được viết vào tk XVIII. Có thể kể: Ariya Xah Pakei, Ariya Bini Cam, Ariya Cam Bini…
Sau đó Champa mất nước, dòng chảy văn chương bị đứt mạch lớn.
Việt, tác phẩm lớn nhất là Truyện Kiều của Nguyễn Du viết vào đầu tk XVIII, mượn cốt tuyện Kim Vân Kiều truyện của Tàu!
Cao Bá Quát (1809-1855) được xem là thi bá, nổi tiếng qua sáng tác chữ Hán chứ không phải là chữ Nôm.
Thời cực thịnh của sáng tác chữ Nôm của người Việt là giữa tk XIX, với Nguyễn Khuyến, Tú Xương…
Tạm kết. Cả Cham lẫn Việt…
– Chữ thì vay mượn, và phải qua thời gian dài mới làm thành của mình.
– Sáng tác luôn là song ngữ, ưu tiên cho ngôn ngữ nguồn: Sanskrit và Hán.
– Khối lượng văn chương ít, không dài, đa phần vay mượn từ cốt truyện đến điển tích.
– Thời đoạn sáng tác phát triển ngắn, sau đó đất nước thay đổi: Cham thì mất nước, Việt thì hết Pháp đến Mỹ, Nga – toàn là TIẾP NHẬN THỤ ĐỘNG.