Từ tút này trở đi, ta cùng đi sâu vào từng mục cụ thể. Đám tang Cham ‘Ahiêr’ ảnh hưởng lên toàn bộ sinh hoạt cộng đồng Cham, sắm vai mở màn. Mong bà con anh chị em cùng tham gia bàn luận.
Qua đời, ngoại trừ giới chức sắc tôn giáo, hầu hết sinh linh Cham không xài đến hòm.
Về giới chức sắc Ahiêr, người ta ‘rauk lanoong’(đục cho cái hòm), rồi sau khi tắm rửa sạch sẽ, thi hài được đặt vào và đậy nắp lại. Tuyệt đối không cho bộ áo quàn người mất thuộc đẳng cấp này chạm đất.
Còn lại tất tần tật sinh linh Cham thì tùy nghi và, ngày càng tùy tiện.
Xưa, khi chưa có phong trào ‘Đam thu’ (đám khô) do Chakleng khởi động từ 1988, Cham ‘Ahiêr’ là ‘Đam that’ (đám tươi). Có trường hợp người mất được dựng rạp để cả tháng đợi ngày lành mới làm lễ thiêu. Còn thì tất cả đều được dành 3 ngày rưỡi: Thứ Tư đến hết sáng thứ Bảy, là lễ hỏa thiêu hoàn tất; hoặc đám lên vào Chủ Nhật, để sáng thứ Tư thiêu. Ở vài vụ đặc biệt, thời gian được rút gọn còn 2 ngày rưỡi, miễn là đủ lễ!
Chuẩn và đại trà là vậy, còn cá biệt cũng nhiều vô số.
Riêng ‘Đam thu’, thời gian từ sinh linh Cham tắt thở đến lúc mang đi nhờ Thần Đất giữ tạm không quá 24 tiếng đồng hồ.
Chính ở đây, Chủ nghĩa Tùy tiện Cham phát huy tối đa đặc tính của nó.
Người Việt đặt nặng vào ngày mất, thế nên từ khi sinh linh mất đến lúc đưa quan tài xuống mộ, là thời gian bà con họ hàng, bạn bè gần xa đến thăm viếng, bên cạnh phúng điếu, để chủ gia “gom tiền” [xin hiểu cả nghĩa tốt và xấu].
Còn Cham Ahiêr, khoản này lại rơi vào thời gian làm ‘Đam cuh’ “Đám thiêu”.
Vậy thì làm thế nào để quan lớn Cham “gom tiền” bà con hay thuộc cấp Việt, khi quan niệm khác nhau thế? Đã xảy ra vài phá lệ: Tang gia quyết giữ thi hài lâu hơn! Dù tục Cham không chịu, nhưng ông là quan to hay người có vai vế, có nói cũng chả tới đâu.
Có quyền làm thế không?
Cham với Cham là vậy, còn Cham lấy Việt, khi [bên B] chấp nhận cho Cham [bên A] “về” quê thì sao? Chôn ngay trong 24 tiếng đồng hồ như tục Cham, hay phải ngâm 2-3 ngày theo lệ Việt? Bố/ chồng mình vừa nhìn thấy đó, vài tiếng sau đã nằm dưới đất sâu, ai mà chịu thấu! Vậy, làm thế nào?
Rồi cả chuyện tắm rửa thi hài nữa?
2. CÂU HỎI CHƯA CÓ LỜI ĐÁP
Trăm năm sống xen cư và cộng cư, hôn nhân Cham Việt xảy ra, là điều bình thường; không bình thường là ở chuyện chết. Mà văn hóa Cham, có một sức mạnh nội tại khó bị đánh đổ hay đồng hóa trong một sớm một chiều.
Vấn đề nảy sinh từ đó.
Sinh linh Cham mất, khi chôn Cham không dùng đến quan tài.
Cham bên A lấy vợ Việt bên B sống xa quê (‘atah palei karei angan’), mất, thi hài lưu tại quê xa 3 ngày sau mới về palei. Ở đây 3 trường hợp xảy ra:
[1] Thầy Kalơng tháo quan tài để làm lễ tẩy uế, thi hài bung ra – dù rất khó coi, với bên A thì không sao; còn bên B – hiểu, và chấp nhận dù vẫn thấy rất đau.
[2] Bên A không cho bên B đóng nắp quan tài; khi quan tài được đưa về palei, do chết “không lành” nên lễ tẩy uế được thực hiện ngoài trời và ngoài làng. Bên B không được chuẩn bị trước về tinh thần để biết tập quán bên A, cảm thấy sốc và, vấn đề xảy ra.
[3] Bên B hiểu phong tục bên A nhưng quyết làm căng, không cho tháo quan tài mà buộc bên A phải chôn cả khối. Chồng tôi, bố tôi tôi có quyền, họ hàng không được xen vào đây.
Chồng tôi, bố tôi tôi có quyền – Đúng! Nhưng đúng với ai [cả với pháp luật] thì được, còn với Cham thì khác cơ. Tục ngữ Cham nói: ‘Athal bha uraang, talaang bha drei/ gaup’: Phần thịt về người (vợ con), phần xương về họ hàng (Sống, dùng sức lực phụng sự người ngoài, chết – mang thi hài về cho gia đình mình, họ hàng mình).
Nữa, không cho tháo quan tài, thì đến bao giờ thần Đất mới tiêu hết “thịt” để cải táng làm đám thiêu đây?
Làm sao? Biết trước, ngừa trước để đả thông tư tưởng là rất quan trọng.
“Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”, – Bạn phải nói cho bà xã tương lai biết rõ Cham là thế, được thì ta sống với nhau, không thì thôi nhé, em đi đường em tôi đường tôi. Sau đó, bạn phải biết “dạy con từ thuở còn thơ” nữa, để chúng nó hiểu mà chấp nhận.
Trường hợp khác. Nếu bạn đã “dạy” và bên B đã thuộc bài… thì đây:
– Vợ và con cái bạn xin được chôn bạn ở quê xa, hẹn dăm mười năm sau “em sẽ trả lại phần xương về” để họ hàng làm đám thiêu vô ‘Kut’. Nhưng rồi đúng hẹn, bên B bội tín, không cho về: Hốt hết đi thì còn đâu dấu vết chồng, bố tôi cho tôi giỗ tháng, giỗ năm! Trong khi ở quê nhà Cham tối tối bạn cứ về đòi ăn, khiến người họ hàng điên đảo.
Lẽ nào lôi nhau ra tòa. Mà tòa nào có thể xử? Xử sao cho phải nhẽ! Nếu làm căng quá, bên B thắng là cái chắc.
– Bạn biết mình sắp gần trời xa đất, bạn làm cái tờ di chúc:
Tôi tên là… Cả đời tôi đã cống hiến hết phần “thịt” cho sự nghiệp vợ con… Nay… khi tôi vừa nhắm mắt, vợ con tôi hãy trả “xương” tôi về ngay quê nhà, để thân tôi tạm gửi thần Đất, sau đó tôi được lên giàn lửa… Đây là khoản tôi gửi tiết kiệm đủ xài… Chớ ngâm tôi lâu ngày hòng kiếm chác từ người thuộc cấp hay làm khổ bạn bè, bà con mà chi…
Thế là họ hàng cầm tờ di chúc kia hối hả lên xe đò ôm “của vàng” (kaya amưh) kia về mà lễ, mà đám theo kiểu mình. Không tiện và thỏa cả đôi đường sao!
[Lưu ý. Vài ví dụ đưa ra đây có thể trùng hợp với trường hợp cụ thể nào đó, xin nhớ cho là, ở đây tôi nêu lên thực thế để tìm cách giải quyết vấn đề, chứ không ý định chê bai hay phê phán – Karun!]