[nhân tai nạn nhí của bạn văn Lê Anh Hoài…]
Thuở Đệ Nhị, một bạn học hỏi:
– Mấy đứa thơ văn nổi như cồn ấy, Trạm sao không cho ra cái gì đó cho nhộn lên?
– Viết mà chưa đạt tầm Nobel thì mình không viết… – tôi nói.
Đó là lần đầu tiên tôi mơ đến Nobel: 17 tuổi, từ đó không bao giờ nữa. Sau này, cái đỉnh tôi muốn vượt lên là Dostoievski, còn Nobel vài bận nhắc lại nó, để đùa nghịch.
Việt Nam mấy chục năm qua tôi biết dăm nhà ôm mộng Nobel, không dứt ra được.
Có nhà âm thầm mơ bóng nàng, có nhà ồn ào lộ liễu và cũng có nhà kín đáo đầy ồn ào, vân vân. Nhà thì đóng phòng văn chả viết gì thêm để sau mỗi mùa thông tin giải là kêu lên: Đ.m, năm này lại hụt nữa rồi…
Có nhà chạy đôn đáo dịch thơ mình ra đủ thứ tiếng gõ cửa từng nhà biếu tặng mọi nơi mong một ngày đẹp trời cô nàng chạm ngõ, ở đó có ghế xúp ngồi cũng chịu luôn.
Nobel văn học ám văn giới Việt Nam như bóng ma.
Phần mình, đầu thiên kỉ thứ ba sau Công nguyên, tôi có tiểu luận “Giải Nobel văn học cho Việt Nam, tại sao chưa?” đăng nhiều nơi. Tạo xôn xao dư luận đáng kể.
Có bạn thơ khẳng định cắc cớ: Việt Nam chỉ có Inrasara xứng đáng Nobel nhất.
Thêm bạn thơ trẻ khác kiêm nhà phê bình: Inrasara thì đáng rồi, anh chỉ còn thiêu thiếu cái gì đó, tí thôi…
Kẹt nỗi, tôi đã không hỏi bạn này đâu là cái “tí thôi” đó để bổ khuyết.
Cũng là một chuyện đáng để giải trí.