Lời IS (viết tắt tên Inrasara)
Cuối năm 1981 tôi đang kế toán trưởng HTX Nông nghiệp Mỹ Nghiệp, thì anh Bạch Thanh Chạy đạp xe qua Chakleng mời về làm ở Ban Biên soạn sách chữ Chăm. Nhớ đó là thời buổi dân Việt Nam đói mờ mắt, mà công điểm chủ nhiệm HTX ngang cơ lương thứ trưởng; tôi kế toán trường thì no đầy phải biết. Nếu ưng qua BBS tôi chịu đồng lương chết đói, vậy mà tôi đã “dạ” không chút ngại ngần.
4 năm ở BBS, tôi sắm vai kế toán, mà kế toán ở đây mỗi cuối tháng làm loáng cái báo cáo là xong, chiếm chưa tới một ngày của tôi. Thời gian còn lại tôi đắm mình vào “từ vựng học tiếng Cham” và… thơ. Nghiên cứu từ vựng học, tôi giúp được BBS vài thứ: chỉnh sửa câu chữ, lỗi chính tả, dựng dậy vài từ bệnh nặng sắp chết… Vậy thôi. Tôi không phải đạp xe qua mấy chục palei Cham hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận “theo dõi thí điểm dạy và học”, không phải họp chuyên môn, và nhất là không phải bị sau này được CPK ghép vào tội “chế biến” chữ Cham. Thay vào đó, khốn nỗi mỗi tháng tôi phải dậy thật sớm ra bến xe Nha Trang xếp hàng mua vé xe than [“Xe than dễ để khó đề/ Khi đi người Dziệt khi dzìa người Miên”] vào Phan Thiết báo cáo tài chính, để chú Thiết Ngữ [phó Giám đốc] cho xơi li cối cà-phê đen, được ngủ một mình một khách sạn mênh mông, và được anh Lùn kế toán Sở duyệt cho khoản kinh phí thừa cuối năm để mua tài liệu trang bị cho Tủ sách của Ban.
Kéo dài đúng 4 năm, tôi xin thầy Tỷ cắt biên chế về quê cày ruộng…
Bài tùy bút viết vào cuối Thu Hà Nội năm 1998.
Nay xin đăng lại như là một kỉ niệm buồn buồn và thơ mộng.
*
Những con người bình thường đến tầm thường, những con người làm việc cật lực trong nỗi vô danh của hạt thóc vãi rơi sau vụ gặt thịnh mùa, chịu ở lại với đám ruộng bỏ giá suốt những tháng hạn, với nắng, gió, chim chóc… để bật lên cây lúa chắc nịch sau những ngày mưa đầu tháng năm; những con người chịu nở trọn lòng mình trong bóng tối… luôn cuốn hút tâm hồn tôi một cách kỳ lạ.
Nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ ở một mình.
Nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ mang đầy hoa trái
Một câu Phúc âm bất ngờ bay tới ám tôi suốt buổi chiều cuối thu mưa phùn, giá rét Hà Nội. Bây giờ là ba giờ sáng. Hôm qua, người thầy cũng là bạn vong niên nhắc tôi viết bài tham luận cho Hội thảo tổng kết hai mươi năm biên sọan sách chữ Chăm – Ninh Thuận. Tôi hơi lưỡng lự. Không phải bởi chuyên môn. Vì dẫu sao, từ lò Ban Biên soạn sách chữ Chăm, tôi đã là một thi sĩ, người nghiên cứu văn hóa dân tộc ít nhiều được biết đến. Mà bởi một cái gì sâu lắng hơn, lay động con tim hơn.
Là đứa em út của Ban mà đã sớm rời anh em, tôi cảm nghe mình mắc nợ. Với người còn lại. Và nhất là với những người đã vĩnh viễn đi xa. Những con người đã chịu làm hạt lúa chết đi…
Lâm Nài, Quảng Đại Hồng, Nguyễn Ngọc Đảo, Bạch Thanh Chạy…
Bốn khuôn mặt – bốn tính cách – một con đường. Những kẻ mà tuổi thiếu niên tôi xem như là những sinh thể cá biệt. Rồi khi lớn lên đủ hiểu biết, tôi lại coi là những con người bình thường – vĩ đại.
Ví dù kẻ hậu sinh này có ngoa ngôn chút ít, kính mong anh linh các vị lượng thứ.
Lâm Nài
Với bộ râu như cước, vầng trán cao lộ vẻ thông thái hệt một ông lão bước ra từ thần thọai. Mà thần thoại thật, bởi mỗi lần ông đạp xe xuống palei là lần các cụ ông cụ bà tụ họp lại để nghe ông kể cổ tích. Và trong ông là cả một kho truyện cổ, truyền thuyết, thần thọai Chăa.
Đôi lúc tôi tự hỏi tại sao ông không hệ thống chúng lại thành cuốn sách sưu tầm văn học dân gian thì có giá trị hơn không. Cứ mãi để cho những ấn phẩm được tập hợp vội vã, sao đi chép lại càng vội vã hơn thao túng văn học Cham. Để người ngoài càng lúc càng hiểu sai về nền văn học dân tộc này.
Nhưng hầu như ông có năng khiếu nói-kể hơn là viết lách. Khoản này thì ông cực kì. Quả thật tôi chưa gặp người Cham nào nói thuần Cham (không độn tiếng Việt), nói hay và chuẩn như ông. Dù ông là người Phan Rí mà trong phát âm và giọng điệu không thấy mùi Parik, cũng chẳng của một địa phương nào.
Riêng vốn từ vựng Cham của ông thì chúng tôi bái phục. Có thể chúng ta không đồng ý lắm với ông về một số từ mới tạo như: mul ba rapatom (chủ nghĩa xã hội) hay tui hatai (tự do)… Nhưng với vốn ngữ vựng mà ngay cả người cùng lứa tuổi ông không ai còn nhớ như: barih (nét), puk (xóm)… thì phải xem đó là một cống hiến thiết thực của ông cho Ban. Chúng tôi tôn ông lão làng là vậy. Một lão làng vui vẻ, hòa nhã. Ông không bao giờ muốn được dành đặc ân, dẫu rất xứng đáng. Đi khảo sát hay kiểm tra dạy và học ở các trường, ông cũng đạp xe như mọi người, những đoạn đường gần như không tưởng. Bảy, tám mươi cây số một ngày – với cụ già trên sáu mươi, dù ông mắc chứng sạn bàng quang nặng. Ba mươi lăm palei Chăm có trường tiểu học trải dài hơn hai trăm cây số của tỉnh Thuận Hải cũ, không nơi nào không in dấu chân ông. Những cơn gió Phan Rang khi thì như hốt từng thau lửa hất vào mặt, lúc lại như kéo cả chùm hơi rét thổi buốt thấu tủy xương người. Mười lăm năm. Thuộc đội ngũ cán bộ đầu đàn của Ban, năm 1993 ông hưu. Nhưng hầu như tất cả tinh lực ông đã dồn hết cho sự nghiệp phát triển tiếng Cham trong những năm xa nhà, nên chưa đầy năm sau, ông ngã bệnh và mất.
Bốn năm làm việc bên ông, tôi định bụng “khai thác” ông vốn truyện cổ. Nhưng rồi lần lữa và lần lữa. Hôm nay đành tiếc hối cho bao vốn quý ông mang theo.
Quảng Đại Hồng
Biệt danh Hồng Thơ. Người Vụ Bổn lấy vợ Mỹ Nghiệp. Thầy dạy tôi lớp một năm 1962 và luôn đồng hành với tôi suốt chặng đời gập ghềnh của tiếng và chữ Cham cho đến khi thầy mất vào mùa thu năm 1991. Cái chết của thầy gây xúc động cho mấy thế hệ học sinh qua trường lớp của thầy ở Mỹ Nghiệp, cộng hưởng sang cả palei Cham khác. Tuổi sáu hai. Có sức khỏe của một thanh niên. Mười giờ tối. Thầy vừa xong lớp dạy xóa tái mù để về căn lều nằm trong khu đất cách đó hơn cây số. Dù tính rất thận trọng nhưng chỉ một lần rủi ro thầy đánh ngã đèn cầy bắt cháy bình xăng. Thầy bị phỏng nặng và mất hai ngày sau đó ở bệnh viện.
Suốt ba mươi năm không ngưng nghỉ, thầy làm một chiến sĩ xóa mù và chống tái mù – cả tiếng Cham lẫn tiếng Việt – không công và hoàn toàn tự nguyện. Nhiều lứa tuổi trẻ chăn trâu nghèo thất học ở Mỹ Nghiệp biết ơn thầy, người đã năn nỉ cha mẹ, đôi lúc cả mua giấy bút để họ có thể đọc và viết được thư cho người yêu.
Nông thôn Cham vào những năm sáu mươi còn rất đèo heo. Mới bảy giờ tối mà làng xóm đã im ắng. Ngoại trừ tiếng học bài của các xêh thầy. Thầy dạo qua tất cả các con hẻm, mà nếu nhà nào không vang tiếng học bài thì chắc chắn hôm sau em đó sẽ bị phạt. Thuở học trường làng, lứa chúng tôi rất khớp về lối nhiệt tình này của thầy. Bây giờ nghĩ lại mới thương.
Mà thầy giàu có gì cho cam. Thầy nghèo đến nỗi phải nhét giẻ làm ruột xe đạp đi mười cây số qua Phan Rang để làm chuyện cười cho bàn dân Ban biên soạn. Nhưng nếu chỉ được chọn giữa học sinh và người thân thì thầy dứt khoát chọn học sinh rồi.
Năm 1986 thầy được phân công dạy lớp hai ở Thành Tín cách nhà khoảng một nồi cơm chín. Trưa, người nhà báo tin dì ruột thầy ở một làng xa bệnh nặng. Lưỡng lự đôi chút, thầy quyết định đi đến với học sinh mình. Và trong lúc cuốc bộ dưới nắng trời Phan Rang, thầy làm một bài thơ tạ lỗi thật cảm động.
Thầy mất. Các học sinh cũ của thầy ở các nơi đang công tác trong ngành giáo dục muốn đề đạt với Sở phong danh hiệu liệt sĩ cho thầy. Một liệt sĩ trên mặt trận giáo dục, ở một cấp thấp nhất: xóa mù! Có cường điệu lắm không? Tôi không nghĩ vậy. Bởi một cây muốn vươn lên khoảng xanh thì trước tiên nó phải bám rễ trên mảnh đất chắc chắn. Chúng ta luôn ôm mang hoài bão làm chuyện to tát vĩ đại mong để lại một tiếng vang. Tiếng vang sẽ dội vào đâu không biết! Hỏi có mấy ai chịu chăm sóc đám ruộng đã bạc mầu, khiêm cung hì hục với khâu làm đất tẻ nhạt và đơn điệu cho cây lúa đâm nhánh trổ bông?
Nguyễn Ngọc Đảo
Khác với Quảng Đại Hồng, Nguyễn Ngọc Đảo là đại biểu của phái ốm. Mút mùa, hai lớp áo bọc lấy tấm thân gầy còm. Vậy mà chính bằng tấm thân này với chiếc xe đạp cọt kẹt, anh đã đội nắng, gió miền Trung mỗi năm hai mùa lặn lội khắp mọi nẻo đường đất palei Chăm cả hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận suốt 20 năm ròng rã để vãi gieo hạt giống chữ lên cánh đồng tâm hồn của con em dân tộc.
NGỌN NẾN ĐA MANG
Không còn nhạc dế tuổi thơ trỗi khúc tiễn đưa
Không còn giọng mẹ ru hời làm câu từ biệt
Chỉ gió đông từng tác oai lên thành ngực lép
Ù ù thổi vào khoảng không anh.
Không lớn lao nên không phải cờ xí rềnh rang
Không vang danh nên chẳng ai tạc tuổi tên vào trang sách
Triệu con chữ xanh anh làm vãi rơi khắp làng mạc
Có cầm tay xếp hàng cũng không phác nổi một hình anh.
Như ngọn nến phải cháy hết đời nến đa mang
Cần gì giọt lệ dư, cần chi lời thơ thống thiết!
Những ánh mắt dại khờ của đám học sinh quê vương màu sốt rét
Cũng đủ ru linh hồn anh ngủ yên.
Làm việc quên mình. Làm việc quên cả quyền lợi dù rất nhỏ nhoi. Một giai thoại về anh: khoảng năm bảy mươi, giáo viên thôn quê hàng tháng phải lên thị xã Phan Rang nhận lương. Bốn, năm lần anh qua nhận trễ. Có khi thủ quỹ phải lưu nó lại đến mươi ngày, khá phiền hà cho kết toán, đến nỗi anh bị phiền trách. Anh đã phát biểu một câu quá ư thật thà: bao công việc chưa xong còn buộc tôi đi lãnh lương nữa!
Lại thêm một kỷ niệm. Năm 1980. cả tuần đi kiểm tra ở các xã xa về. Mệt bã người. Buổi tối chúng tôi lăn ra ngủ để còn lấy sức cho hai hôm sau tiếp tục lên đường giải quyết các trường còn lại. Cơ sở mới chuyển đổi, cửa khóa khá chểnh mảng. Chả chểnh mảng là gì bởi gần hai mươi anh em tập trung trong một phòng tập thể rộng thênh thang. Và có gì quý đâu mà lo giữ. Thế là, một chiếc xe đạp bị mượn đỡ, lại đụng ngay xe của anh mới khổ chứ. Anh đã khóc như con nít. Và rên: tôi lấy gì để đi xuống trường đây! Mà không có thật. Phải mất một quý đèo nhau anh mới có được chiếc xe mới do mười anh em nhường tiêu chuẩn.
Làm việc với tất cả lương tâm nghề nghiệp. Ở Trường Trung học Sư phạm Ninh Thuận có lớp bồi dưỡng chữ Cham cho giáo sinh hàng năm. Mấy năm đầu, một giáo viên với lối dạy qua loa, rồi thêm một vị với việc truyền thụ kiến thức trên trời, thì hầu như các khóa học đều thất bại. Và dĩ nhiên: bởi học sinh Cham thiếu căn bản!
Nhưng khi anh Đảo đứng lớp thì tất cả thay đổi hẳn: giáo sinh siêng học, luôn muốn được thầy dò bài, và cả những người bỏ học đều xin trở lại lớp. Không phải vô cớ mà buổi lễ tổng kết, Hiệu trưởng trường Trần Đức Lực phát biểu rằng: “Nếu ngành Sư phạm đào tạo được tất cả giáo viên như Nguyễn Ngọc Đảo thì đất nước này không phải ở tình trạng hôm nay, mà đã cất cánh lâu rồi!”
Vắt kiệt sức cho công việc. Tổng kết năm năm biên soạn, dạy và học sách thí điểm, ba anh em chúng tôi chỉ có bốn ngày đêm chuẩn bị. Dù tôi với Kinh Duy Trịnh trẻ khỏe hơn, và dẫu nhiệt tình đến đâu, chúng tôi cũng tranh thủ chợp mắt. Riêng anh thì không. Để đến hôm khai mạc, anh ném thân xác kiệt quệ của mình lên chiếc giường cứng ngủ li bì, ẩn mình sau bóng tối của vinh dự.
Có phải thế chăng mà anh đã ngã gục bất đắc kỳ tử vào mùa đông năm 1997 ở một làng xa nơi anh đang công tác? Và phải thế chăng mà gần cả trăm cánh thư chia buồn với lời lẽ thống thiết và trân trọng nhất từ khắp nơi đổ dồn về Phước Nhơn, quê anh. Điều vô tiền [khoáng hậu] trong xã hội còn quá chật chội và khá kèn cựa nhau này.
Định mệnh thật cay nghiệt với anh, với Quãng Đại Hồng trước đó và cả với Bạch Thanh Chạy nữa.
Bạch Thanh Chạy
Mất bởi bệnh ung thư cấp tính vào năm 1982, khi mới tứ thập, lúc tài năng đang độ chín mà ước mơ chưa thành. Mất chỉ hai ngày sau khi đọc bảng Tổng kết năm năm hoạt động Ban Biên soạn sách chữ Chăm. Quả chưa kịp hái mà người đã ra đi. Cái chết gây bàng hoàng cho cả xã hội Cham.
Có thấy anh gò từng nét chữ để vẽ từng mẫu tự hoa Cham rồi sửa đi sửa lại cả trăm lần, có thấy anh mò mẫm đọc, chép, dịch văn bản cổ Cham để từ đó làm nháp ngữ pháp tiếng Cham rồi lại đi, hỏi, mở hội nghị chuyên đề cả chục lần mới hiểu hết cái say mê của anh với ngôn ngữ mẹ đẻ như thế nào.
Thế hệ này sang thế hệ khác, xã hội Cham luôn sinh ra những người con yêu thương tiếng nói và chữ viết dân tộc, riêng trường hợp Bạch Thanh Chạy là cực hiếm.
Nghe tên các vị nghiên cứu có tiếng về Cham, anh đều liên hệ mời bằng được họ về nói chuyện. Anh còn thân hành đi khắp các làng xã Cham xin từng cặp gà, vịt, dê, để bổ sung kinh phí hạn hẹp cho hội nghị nữa.
Mùa hè trời rất bức và gió rất nồng. Đường cát lồi lõm Thành Tín mù bụi. Anh em chúng tôi đạp xe ngược gió. Gió ơi là gió. Người ta bảo dân Thành Tín mới mười hai mắt đã chập chững bét quả không ngoa. Có đoạn hai ba trăm bước chúng tôi phải dắt. Không ít khúc xe đã đi thuyền. Người Cham phần đông nghèo khổ, riêng ở đây cần thêm cái chữ cực làm hậu tố. Thành Tín với tôi như là quê hương thứ hai. Tình cảm bà con, bằng hữu muôn đời vẫn vậy: trung thành và chân chất. Vợ anh Chạy lại là người Thành Tín. Thế mà một chuyện khá bất ngờ đã xảy ra. Tiếng là một gia đình phú nông ở đây có máy điện, chúng tôi ghé vào hỏi nhờ ba đêm là một lẽ rất thường tình trong xã hội Cham. Bà cụ lịch sự mời chúng tôi trà trước. Biết ý định của anh, bà cụ vội đỡ lời:
– Ôi hai cháu ơi, máy điện thím mới mua tốt lắm, thằng con rất cưng, lau chùi ngày ngày. Hai cháu cho thím xin…
Chúng tôi nghe mà hỡi ôi, không biết nên cười hay khóc nữa. Thường thì muốn từ chối, người ta viện lẽ máy hư hoặc có trục trặc gì đó, đằng này… Vậy là chúng tôi lủi thủi đạp xe trở về. Biết nhau chưa đầy năm, anh đã gây cho tôi bao nhiêu ấn tượng. Nhưng thôi, cái chết đã mang anh đi để lại trong tôi cả khoảng trống. Cũng như cái chết của ông Nài, thầy Hồng, anh Đảo.
Chúng ta đến, chúng ta đi, và chúng ta bị quên lãng. Có thể những tên tuổi này cũng bị sớm lãng quên trong ký ức mọi người, như họ mong được thế. Như hạt giống chỉ muốn mình bị lãng quên để có được cây lúa xanh tươi trổ bông chĩu gié cho đời người và cho mùa sau.
Hà Nội, cuối thu 1998.