Báo Đời Sống & Pháp Luật, số 2, 5-2013
* Cùng các bạn thời sinh viên: Inrasara, Phú Văn Tình, Nguyễn Tỷ Chế Đạt, Thành Phần, Loan.
Nhà thơ Inrasara – Phú Trạm là một người luôn có những quyết định và hướng đi của riêng mình, có những lúc ông bỏ công việc mà nhiều người mơ ước để về cày ruộng. Bởi trong ông luôn có cái “ngông” của một nghệ sĩ. Cuộc đời ông có vô số những gian truân thử thách. Nhưng chính những điều ấy lại hình thành nên một nhân cách đáng kính và một bản lĩnh kiên cường. Để rồi, sau này ông đã có những cống hiến cho dân tộc Chăm của mình với những tác phẩm nghiên cứu, sáng tác để đời. Với người Chăm, ông chính là biểu tượng về một tấm gương đầy nghị lực vươn lên từ chông gai thử thách.
*
Bỏ đèn sách, cày ruộng… rồi đi tu
Tôi ấn tượng về nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu Inrasara – Phú Trạm (sinh năm 1957, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) từ câu chuyện kể của một nhà thơ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi tìm cách liên lạc với ông Phú Trạm thì được biết hiện ông đang công tác ở Tây Nguyên. Trước một con người kỳ lạ và nhiều điều lý thú, chúng tôi liền tìm lên Tây Nguyên gặp ông. Gặp chúng tôi, giọng ông Phú Trạm trong trẻo, thân thiện khiến chúng tôi càng không thể hiểu nổi vì sao ở một con người như thế lại có những lúc quyết định gây chấn động mọi người đến vậy. Chia sẻ với chúng tôi, ông Phú Trạm cho hay: “Tôi sinh ra cũng trong một gia đình khó khăn tại làng Chakleng (thị trấn Phươc Dân). Thuở nhỏ tôi đã chứng kiến cái cảnh đói khổ của gia đình và những quyết định “lì lợm” của cha tôi. Cha tôi là người duy nhất trong làng dám gieo lúa trái vụ ba trăng thay vì lúa chiêm” trong mùa nắng hạn.
Thấy thế ông ra sức học tập chỉ mong sau này có cuộc sống vững vàng hơn. Ông học sáng dạ, chưa đến tuổi đi học thì đã đòi cha mẹ dắt đến trường cho bằng được. Ông nhỏ con nhất lớp vì chưa đủ tuổi, nhưng lại là đứa đứng đầu lớp về học lực. Nhớ lại buổi ban đầu cắp sách tới trường ấy, ông kể:
“Ngày khai giảng, lứa bạn chơi chúng tôi rủ nhau đến trường. Tất cả được vào lớp, riêng tôi bị thầy chê nhỏ quá, đuổi về, bảo sang năm mới vào được. Tôi chạy u về khóc lăn níu váy mẹ đòi vào lớp cho bằng được. Thế là mẹ dắt tay đến gặp năn nỉ thầy cho tôi “học gửi”. Vậy mà chỉ cần qua buổi học, thầy quyết cho tôi ngồi bàn đầu luôn. Từ đó gần như tôi hiếm khi đứng nhì lớp. Riêng tiếng Chăm, tôi thuộc lòng mấy thi phẩm mà ông ngoại đọc ngâm vào những đêm trăng, thuở tôi còn chưa cắp sách đến trường.”
Thông minh khác người là thế, nhưng đối với ông Phú Trạm lại luôn có những quyết định tưởng như bồng bột. Năm 1977, ông Phú Trạm thi đỗ vào Khoa Văn, trường Đại học Sư phạm TP.HCM. Thời đó, ông cũng là người hiếm hoi trong làng, trong dân tộc Chăm đỗ đại học, nên người nhà ông cố hết sức để chăm lo cho đi học. Thế nhưng, chỉ sau một tuần nhập lớp ông cãi lại vị giáo sư. Ông chán khoa Văn và chuyển sang khoa Anh sau một kỳ thi. Sang khoa Anh chưa hết học kỳ, ông lại có những lập luận riêng của mình với thầy cô giáo. “Cô giáo nói tôi sai, lớp trưởng kêu tôi là sai tư tưởng. Thế là tôi chán môn này. Gần năm nhất tôi từ bỏ luôn giảng đường“. Bỏ trường đại học để về cày ruộng và tự học, tự nghiên cứu chính là cách mà ông Phú Trạm lựa chọn.
Sau khi bỏ học, ông vào Nha Trang lên chùa tu. Được một thời gian vì thiếu sách nên ông trở về quê cày ruộng thuê, mục đích là để có tiền mua sách. Gần như cứ mỗi tháng một lần ông nhảy xe lửa vào thành phố ôm cả đống sách về đọc. Cày và đọc. Nhà thơ Phú Trạm cho biết: “Năm 1978, tôi viết tiểu luận hơn trăm trang về Krishnamurti, dịch thơ của vài tác giả Pháp, làm vài trăm bài thơ và 3 trường ca cả tiếng Chăm và tiếng Việt“. Ông trở nên nổi tiếng từ những nghiên cứu ấy. Chính vì lẽ đó, ông được Ban Biên soạn sách chữ Chăm mời vào làm việc. Được một thời gian, chừng 4 năm, biết được chức năng Ban Biên soạn chỉ bó hẹp ở việc biên soạn sách cho bậc tiểu học, trong khi ông luôn có một ý nghĩ trong đầu là phải làm sao đưa ngôn ngữ và văn hóa Chăm đi xa hơn thế nữa, thế là Phú Trạm lại khăn gói ra đi về quê cày ruộng và làm đủ việc để sinh nhai.
* Lang thang về miền cổ sơ.
Luôn tìm tòi đổi mới
Là một con người của dân tộc Chăm có truyền thống văn hóa lâu đời, thế nên ông tự đặt trách nhiệm nặng nề với chính bản thân là giới thiệu với thế giới bên ngoài về văn hóa dân tộc Chăm. Nhà thơ Inrasara – Phú Trạm chia sẻ: “Tôi muốn tìm hiểu tâm hồn dân tộc Chăm và tôi cho rằng văn chương là biểu hiện trọn vẹn nhất. Do đó, tôi nghiên cứu là để giới thiệu với thế giới bên ngoài một nền văn học có bề dày truyền thống nhưng đang có nguy cơ bị thất truyền. Muốn nghiên cứu thấu đáo nền văn học này song điều kiện tiên quyết là phải nắm vững vốn cổ ngữ Chăm“.
Chính những thiếu sót đó ông đã sáng suốt tập trung nghiên cứu sâu lĩnh vực này. Tuy cuộc sống quá nhiều thăng trầm, lam lũ, Phú Trạm luôn có một định hướng rất rõ ràng. Khi quyết định từ bỏ giảng đường để quay về quê cày ruộng, ông luôn tìm cách để học hỏi, nghiên cứu sáng tác các tác phẩm liên quan đến văn hóa Chăm.
Nhưng lâu nay, khi nói đến Chăm người ta chỉ tập trung về nền kiến trúc, điêu khắc hay các điệu múa, các điệu dân ca còn lưu truyền; còn văn học thì ít được đề cập. Ngay trong văn học sử Việt Nam, một trang về văn học Chăm cũng không có. Đó là điều đáng tiếc. Làm bộ ba Văn học Chăm – khái luận – văn tuyển (1994-1995) ngàn trang, gồm phần khái luận, trường ca và văn học dân gian, tôi chỉ muốn giới thiệu khái quát nhất nền văn học dân tộc đến với công chúng và giới chuyên môn. Mười năm sau, tôi tiếp tục làm bộ sách khác với tên gọi là Tủ sách văn học Chăm gồm 10 tập khoảng 5.000 trang. Ở đây tôi có ước mong độc giả các nơi nhận diện được khuôn mặt thật và tương đối toàn diện của nền văn học dân tộc.
Tuy biết làm thơ từ khi 14 tuổi, cả tiếng Chăm lẫn tiếng Việt, nhưng kể từ khi nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ dân tộc đã cung cấp vốn liến quan trọng cho công việc làm thơ. Nhớ lại kỷ niệm tập thơ đầu đời được phát hành rộng rãi và được công chúng đón nhận, ông hồ hởi chia sẻ: “Năm 18 tuổi, tôi mang các bài thơ và trường ca tiếng Chăm cho bài đọc thêm khóa tiếng Chăm và nhóm bạn ở quê. Dừng lại ở đó thôi chứ không có ý định đăng báo hay in tập. Cả khi tôi vào làm việc tại đại học Tổng hợp TP.HCM năm 1992, tôi vẫn không có ý định đăng thơ. Năm 1994, không biết ai giới thiệu, nhà thơ Nông Quốc Chấn gặp tôi ở Sài Gòn và đọc qua bản thảo . Ông nói thơ hay lắm, ông bảo tôi làm nguyên cho một tập bản thảo để mang ra Hà Nội in. Nhưng mãi sau hai năm, tập đầu tay Tháp nắng mới ra đời“. Từ đó, thơ ông xuất hiện thường xuyên và khá dày trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
*
Nhà thơ làm nhiều nghề nhất
Nhà thơ Inrasara – Phú Trạm được xem là người làm nhiều nghề nhất để mưu sinh. Nhắc về chuyện này, ông bộc bạch: “Thú thật là tôi từng buôn thuốc lá, làm nho, cày ruộng, làm thú y, dạy võ, câu cá, mua lúa về xay ra gạo đem bán… để nuôi gia đình. Nhưng ấn tượng với tôi nhất có lẽ là lần bán nhà vào miền Tây để buôn thổ cẩm dân tộc Chăm nhưng sau đó thất bại ê chề. Về quê chúng tôi thuê cửa hàng hợp tác xã để bán cà phê, tạp hóa…”
*
Nhà thơ có sự độc đáo trong quan niệm sáng tác
Chia sẻ về sự khác biệt trong quan niệm sáng tác của mình với các nhà thơ khác, nhà thơ Inrasara – Phú Trạm cho hay:
“Thứ nhất, tôi ham thích triết học và đọc nhiều tác phẩm triết học; thứ hai, tôi đến từ vùng miền văn hóa Champa, ở đó có những tác phẩm mang tính tư tưởng, cạnh đó cách nghĩ qua cấu trúc ngôn ngữ giữa hai dân tộc Việt Chăm cũng tạo nên sự khác biệt; cuối cùng, từ vùng miền văn hóa kia, chất liệu thơ tôi cũng khác rất nhiều. Ngoài ba nguyên nhân ấy, tính tôi ưa tìm tòi khai phá, nên qua mỗi tác phẩm hay mỗi chặng đường, chẳng những tôi thay đổi phong cách viết, mà còn thay đổi cả hệ mĩ học. Nếu Tháp nắng (1996) thuộc hệ mĩ học lãng mạn hậu thời và tiền hiện đại, thì sang Lễ Tẩy trần tháng Tư (2002), độc giả thấy rõ dấu ấn của mĩ học hiện đại; sau đó Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài thơ tân hình thức (2006) được viết theo thi pháp Thơ tân hình thức; sang Ở nơi ấy [thơ thời cuộc] (2010) thì tôi chuyển hẳn sang hệ mĩ học hậu hiện đại.”
Mấy lời tâm huyết
Kính thưa nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình Inrasara!
Hai nhà báo nhận xét về ông rất là hay:
“Cuộc đời ông có vô số những gian truân thử thách… hình thành nên một nhân cách đáng kính và một bản lĩnh kiên cường… ông chính là biểu tượng về một tấm gương đầy nghị lực vươn lên từ chông gai thử thách”. Tôi cũng đồng ý!
Nhưng xin hỏi cớ sao trong cuộc chiến akhar thrah, ông lại phủi tay vô trách nhiệm? Bản thân tôi thấy ông (có thể là người duy nhất) đủ yếu tố gánh vác vụ đó. 5 yếu tố đó là:
1/- Ông làm việc ở BBS, đủ hiểu Ban này cho dù ông không tham gia vào chương trình chuẩn hóa chữ akhar thrah; tôi thấy ông chấp nhận cả hai lối viết ở tạp chí Tagalau chứng tỏ ông trung lập;
2/- Ông đã từng dạy chữ Chăm từ năm ông 18 tuổi cho rất nhiều thành phần và độ tuổi, nên ông thừa kinh nghiệm; ông biên soạn từ điển, viết sách tự học tiếng Chăm;
3/- Có lẽ trong xã hội Chăm, ông là người có kiến thức tổng hợp nhất để nhìn thấu vấn đề; chuyện này thấy rõ qua các tác phẩm của ông;
4/- Ông có uy tín trong cộng đồng Chăm vừa có uy tín trong giới học thuật, nhà văn, nhà báo Việt Nam;
5/- Điều trọng yếu nhất trong lúc này là, tâm tính ông không quá khích, ngôn từ ông chừng mực, thái độ ông điềm đạm;
Tôi cho là chỉ có ông mới đủ yếu tố đứng ra tổ chức cuộc gặp mặt này được. Nếu PD tổ chức thì có vẻ chống BBS; nếu Nhà nước tổ chức thì bên kia cho là bênh BBS; nên tôi cho là chỉ có ông.
Mạo muội đôi dòng, mong cô bác Chăm cảm thông nếu có gì sai trái, mong nhà thơ Inrasara bỏ qua nếu có điều phạm thượng.
Kính
Giải pháp của Jaya Mrai thấy rất hay. Mong nhà thơ chấp nhận, để khỏi ồn ào về sau. Học cái nào cũng được, chọn 1 cái cho mấy trẻ học hành cho xong.
Các nhà báo ca ngợi nhà thơ Inrasara thì miễn nói rồi, vẫn là câu chuyện cũ nói lại thôi. Tôi thích các chuyên luận, các luận án Thạc sĩ viết về Inrasara hơn. Họ có nhiều khám phá và bình luận đọc rất thú vị. Tiếc là Inrasara.com chỉ trích đăng mà không đưa hết toàn văn. 7 luận văn Thạc sĩ chớ đâu ít.
Phóng to tấm hình 1, tôi phân tách như sau:
– Loan: xách bị, đựng cái gì đó, Thành Phần: đi tay không, Chế Đạt thì vác vai đàn ghita, Phú Văn Tình đeo vai túi xách, còn Inrasara thì cắp cuốn sách khá dày.
– Loan và Thành Phần mặt nghiêm; Đạt và Tình cười hở răng, Inrasara cười bằng mắt.
Tấm hình 2:
Cả con người nhà thơ Inrasara tràn ánh sáng đi giữa những hòn đá, có lẽ là nghĩa trang cổ người Chăm Bà-ni.
Các bạn trẻ nhà thơ, nhà nghiên cứu Chăm có biết tại sao ông Inrasara đi được xa như thế không? Tại vì ông ta biết nín nhịn đó. Chớ ham hố nổi tiếng sớm, thì ông ta ngoẻo từ khuya rồi…
Ông ta làm thơ từ năm 14 tuổi, mà 25 năm sau mới đem thơ đi in, còn các bạn mới viết vài bài đầu tay chưa ra trò mà đã vội vội vàng vàng mang đi đăng báo!
Ông ta nghiên cứu từ năm lớp 9, rồi đến năm 40 tuổi mới in tác phẩm đầu tiên, còn các bạn mới tập tò vài bài nghiên cứu mà đã mang đăng trên tạp chí khoa học cấp… quốc tế!!!
Điều này tôi nói cả cho bọn làm thơ, làm nghiên cứu Việt.
Bạn Ja Li-U viết là:
“Giải pháp của Jaya Mrai thấy rất hay. Mong nhà thơ chấp nhận, để khỏi ồn ào về sau. Học cái nào cũng được, chọn 1 cái cho mấy trẻ học hành cho xong.”
Câu trên thì tôi đồng ý: ông Inrasara có khả năng tập hợp (như ông đã tập hợp Chăm làm Tagalau, tập hợp sinh viên Chăm kí này nọ và nhiều chuyện khác nữa…)
Câu dưới thì các bạn sai hoàn toàn.
Sai 1. Bọn trẻ con đã được chọn 1 cái để học rồi. Đó là sách của BBS. Hơn 30 năm nay đã vậy. Không ai ép người Chăm chọn cả, chính người Chăm tự chọn, rồi trên quyết. Sau hội thảo nghe ý kiến trí thức Chăm ở PR năm 2007, trên cũng đã quyết tiếp tục lại.
Sai 2. Còn hội thảo khoa học như ở Mã lai, hay sau này nếu ông Inrasara có tổ chức hội thảo bỏ túi gì đó thành công đi nữa, thì cũng chỉ để Bộ Giáo dục THAM KHẢO THÔI. HỘI THẢO KHOA HỌC KHÔNG PHẢI ĐỂ QUYẾT GÌ CẢ.
Mấy bạn Chăm nhầm lẫn là thế. Có ai đời nào thấy hội thảo mà bắt nhau kí để thực hiện không? Từ quốc nội cho đến quốc tế, tôi chưa thấy bao giờ.