Lặn sâu vào dân tộc để sáng tạo cái mới

Tham luận viết cho Hội thảo Văn học trẻ Dân tộc và Miền núi, 3-2011


1. Truyền thống và hiện đại, tiếp thu và sáng tạo, tiếp nhận tinh hoa thế giới,… là cụm từ xuất hiện thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến văn hóa – hai thập niên qua. Lặp đi lặp lại đến thành nhàm. Nhàm và nhảm. Nhất là trong sáng tác văn học. Với văn học các dân tộc thiểu số thì càng. Bởi thực tế, chưa ai chỉ ra cho ta thấy cụ thể đâu là truyền thống văn học dân tộc. Từ Chăm đến Tày, Khmer hay các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Tất cả… Ta hiểu mơ hồ và làm mơ hồ. Từ đó xảy ra bao ngộ nhận.

Ngộ nhận, nên ta cứ đinh ninh mấy ê hê, thổ cẩm, thắng cố, vòng xòe, apsara, cái gùi, buôn plây phum sóc… là dân tộc. Cứ đùn thật nhiều ngôn từ cụ thể, lối nghĩ sơ giản, lối nói dân dã mộc mạc vào thơ là mặc nhiên ta đã đậm đà bản sắc. Không cần biết đến cách tân hay sáng tạo. Từ đó, ta vỗ về và ca tụng nhau, phê bình và nhận định tác phẩm của nhau. Mơ hồ vậy thôi, và không gì khác. Vô hình trung, các cụm từ trở thành khẩu hiệu sáo rỗng, mình hô cho mình nghe. Rồi thôi, và không gì hơn.
Bởi, gần nửa thế kỉ trôi qua từ khi đất nước làm một, đâu là công trình khoa học thật nền tảng về toàn cảnh văn học cổ điển Nùng, Dao, Êđê, Bana, Mông, Thái… được trình làng, để thế hệ sáng tác hôm nay có thể “tiếp thu và sáng tạo”? Không hiểu mình, ta hổng chân và mất đất đứng; không biết mình ở đâu để khởi đi từ đâu, ta dễ làm lang thang lạc lõng.
Với thế giới ngoài kia thì càng…

Văn hóa một dân tộc tồn tại ở bản sắc, phát triển ở tiếp nhận và sáng tạo. Nhưng thế nào là bản sắc? Ta chỉ hiểu được bản sắc một cái gì đó khi đặt nó bên cạnh một/ những cái khác. Đâu là bản sắc văn hóa Chăm? Ở phạm vi hẹp hơn, văn học chẳng hạn, đâu là bản sắc, cái khác biệt nổi bật của văn học Chăm khả dĩ làm đa dạng thêm nền văn học đa dân tộc Việt Nam?
So với các dân tộc thiểu số khác, thế hệ sáng tác trẻ Chăm có đôi chút may mắn hơn, có lẽ. Khởi đầu cuộc viết, họ được trang bị hành trang văn học dân tộc khởi từ nỗ lực không mệt mỏi của mấy thế hệ nhà nghiên cứu trước đó như: E. Aymonier, A. Landes, E.M. Durand, P. Mus, G. Moussay, Thiên Sanh Cảnh… để cuối cùng quy tập ở bộ Văn học Chăm, khái luận – văn tuyển(1) ba tập của Inrasara ra đời vào năm 1995.
Đó là nền đất họ đã đứng, đứng để có thể tự tin bước đi.
Nhưng giữa bạt ngàn trang của những sử thi như Akayet Dewa Mưno, Akayet Inra Patra, trường ca trữ tình như Ariya Bini – Cam, Ariya Xak Pakei, trường ca thế sự: Ariya Glơng Anak, Pauh Catwai hay Ariya Nau Ikak… đâu là cái tinh túy? Tinh túy đầy bản sắc, để các thế hệ tiếp nối dẫu luân lạc đến tận chân trời xa lạ nào, vẫn không thể đánh mất sợi dây kết liên với cuống rốn kia, khi sáng tác?
Đó chính là tâm hồn và tư duy Chăm, cả tư duy bình dân lẫn tư duy bác học: tư duy phức hợp, tư duy trừu tượng, siêu hình, tư biện, suy lí… biểu hiện ở bề nổi lẫn phần chìm trong mọi khía cạnh, lĩnh vực. Tâm hồn và tư duy tồn tại ngay trong cấu trúc ngôn ngữ, ẩn tàng gần như vô hình trong các tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học ấy(2).

Dù truyền thống kia bị đứt mạch hơn hai thế kỉ, khi hội đủ tố chất để thừa hưởng tinh túy kia, các cây bút trẻ Chăm vẫn có thể biết “tiếp nhận và sáng tạo” từ kho tàng bản sắc văn học dân tộc. Những Bá Minh Trí, Diễm Sơn, Jalau Anưk, Sonputra, Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên,… – qua sự chuyển tiếp từ thế hệ trước đó không lâu: Inrasara, Trà Vigia, Trầm Ngọc Lan,… – thời gian qua, phần nào đó đã làm nên tiếng thơ riêng biệt của thế hệ mình. Và, cho dù họ làm thơ bằng tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ, hơi thở truyền thống thơ ca Chăm cùng vài thủ pháp đặc trưng của cha ông vẫn được họ mang vào tác phẩm mới đầy sáng tạo.


* Cùng các cháu sinh viên Phan Rí tại Ngày Thơ Việt Nam.

2. Sau khi vương quốc Champa tan rã để hòa vào đất nước Việt Nam thống nhất, dù bao biến động của thời cuộc, xáo động của xã hội, li tán của dân tộc, các cây bút Chăm vẫn cứ sống và viết, làm thơ và hi vọng. Nhưng viết, họ đăng ở đâu? Quan trọng hơn – họ có muốn xuất hiện như một tác giả biệt lập không? Đây là một câu hỏi gần như thừa, với đại đa số người làm thơ hôm nay. Thừa nên, rất ngớ ngẩn. Với Chăm thì khác. Vô danh nằm trong truyền thống của văn chương Chăm. Vô danh cả đến thời cận đại. Người đọc biết tên tuổi làm ra tác phẩm kia, nhưng người chép sách vẫn cứ không chịu ghi tên tác giả. Và lạ, cả tác giả cũng chẳng cảm thấy có gì nghiêm trọng ở đó. Vô danh đến gần cuối thế kỉ XX, khi ngoài kia kẻ sáng tạo ở thế giới hiện đại nỗ lực khẳng định cá tính qua phong cách độc đáo, khi thời kì văn học của “tác giả đã chết” sắp khai sinh, Chăm cứ vô danh. “Su-on bhum Cam” của Jaya Mưyut Cam đăng trên đặc san Ước vọng được cho là bài thơ hay(3), không ít người biết Nguyễn Văn Tỷ là tác giả. Nhưng chỉ vài chục năm sau thôi, hầu hết người Chăm ngâm đọc nó đầu làng cuối xóm mà không thèm biết ai là tác giả thực của bài thơ. Độc giả Chăm vô danh hóa tác phẩm văn chương, để tha hồ tưởng tượng và sáng tạo.
Chưa muốn xuất hiện, không phải Chăm chưa thật sự nhập cuộc vào đời sống văn học đương đại Việt Nam, mà thái độ này có xuất phát điểm từ quan niệm về văn chương. Tác phẩm văn chương là của chung mà “tác giả” chỉ là kẻ khởi xướng không không hơn kém. Từ đó mỗi tác phẩm mời gọi người đọc tham gia đồng sáng tạo, dù chúng là tác phẩm thành văn mang đậm dấu ấn cá nhân. Các Damnưy Chăm được Ong Mưdwơn hát trong các lễ Rija là một trong những.
Trà Vigia làm thơ sớm, có thơ đăng trên nội san Panrang(4) ngay từ thuở Trung học; sau Bảy lăm, anh vẫn viết đều đặn; còn hỏi có cần tập hợp chúng lại để ra mắt người đời không thì – không chút mặn mà. Inrasara tập tành ráp vần từ mười bốn, mười lăm mà mãi đến tuổi tứ thập mới gởi bài thơ đăng báo đầu tiên, in tập thơ đầu tiên. Jalau Anưk cũng hệt: Mười năm làm thơ đủ khả năng cho ra một tập sáng giá nhưng khi có người đề nghị in tập thì – chưa vội!
Một lối hành xử với văn chương chữ nghĩa rất Chăm.

Thấy rồi mới tìm.
Đạo sĩ Bà-la-môn khi đã rời bỏ rừng sống đời khất sĩ, trút mọi gánh nặng hay thành quả sau lưng, nhẹ nhõm như mây trời, làm cuộc phiêu lãng vô định và bất tận. Mãi mãi trên đường. Đường, có thể là đường phố hay con đường điền dã hoặc lối đi trong rừng, thậm chí đường hàng không – không vấn đề! Thơ ca nẩy sinh và ở lại trên con đường vừa đi qua đó.
Chưa đặt một chân sang bờ bên kia, chưa là người biết Paramārtha-vid mà đã xài chữ, đã vội vã “sáng tạo”, bạn chỉ dừng lại ở kẻ tập tò làm vần. Triết học Ấn Độ hoài nghi ngôn ngữ, cả thứ ngôn ngữ đã được nạo bỏ các thứ lớp sơn giả tạo, ý đồ. Viết ở bờ bên này, chẳng những bạn làm bẩn tư tưởng thôi mà còn xả rác vào chính ngôn ngữ nữa. Bước sang bờ bên kia, nếu bạn một đi không ngoảnh lại, bạn không thể trở thành một nhà thơ chân tính. Hiểu māyā, vượt bỏ māyā, nhưng bạn vẫn ở lại với māyā. Ở lại cùng và yêu thương māyā. Đấy là hành động cao cường của một Bồ tát-nghệ sĩ Bodhisattva-artist!”(5)

3. Nhưng thời đại hôm nay đã khác. Đặc san Tagalau I, Tuyển tập sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu Chăm(6) ra đời vào mùa Katê năm 2000, sau mười một kì, đã trình làng hàng loạt tác giả thơ thuộc nhiều thế hệ cư trú ở nhiều vùng miền khác nhau. Từ bác tiều phu tuổi thất thập đến anh giáo viên trung niên vùng cao cho chí các cháu đang ngồi lớp cuối cấp Tiểu học trường làng. Thơ ngắn hay trường ca. Tiếng Chăm lẫn tiếng Việt. Đây chắc chắn là mảnh đất lành cho thế hệ mới xuất hiện và thể nghiệm. Thử điểm danh: Huy Tuấn, Bá Minh Trí, Chế Mỹ Lan, Mih Tơm, Diễm Sơn, Sonputra, Jalau Anưk, Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, Thạch Giáng Hạ, Trà Thy Mưlan, Shiyatna, Quỳnh Chi(7)…

Dù ý thức và cách thể hiện mỗi người mỗi khác, tất cả đều tự thức về cá nhân và thân phận, về sinh thể mang tên con người là “tôi” trong lòng xã hội Chăm giữa cộng đồng Việt Nam. Từ Jalau Anưk:

Nhễ nhại mồ hôi, xé lòng cơn đau đêm, lập cập run – bi mìn sót lại.
Mẹ dội tôi vào đời, khóc oang oang, nhầy nhụa chiếc phòng, quờ quạng trong đặc sệt bóng tối, phủ lên palei gánh nặng một đời người.
Loài quạ thét trong đêm, tan tác bầy cú vọ, tiếng khóc vỡ òa đánh thức bầy gà lười gáy tinh mơ.
Đi – cha tôi đi – cánh tay trần gầy guộc, lôi không nổi bầy ngôn ngữ nằm sâu dưới vực, chiếc tàu gặp nạn, chìm vùi illimo.
Tôi – cái thằng tôi – trơ trẽn vỗ ngực, ngủ vùi cùng cái mác bảnh choẹ, láng coóng một cái đầu to hai mái – rỗng tuếch bên trong, tỉnh vội – soi gương thấy mình cũng chỉ là cái thằng Klu khờ khạo, mút mục ngón tay cái mà cứ tưởng là núm vú mẹ nâng niu ngày chào đời
.
(Jalau Anưk, “Tôi”)(8)

Cho đến Đồng Chuông Tử:

Tôi – hạt bụi cô đơn của trái đất…
Tôi bừng cháy.
Ta xóc hành trang đựng đầy gió
lên
đôi vai gầy gã trai Chăm mơ mộng
cô độc đi…

(Đồng Chuông Tử, Thèm ăn, NXB Thanh niên, H., 2007)

Không phải những cái tôi như thể cái tôi lãng mạn thơ mộng thuở nào, hay cái tôi sơ giản chân chất đậm đà bản sắc, mà là cái tôi đầy hỗn độn nhiều bất trắc đồng thời biết phản tỉnh và dám tự lật trái mình. Lật trái để cười cợt mình. Lại Jalau Anưk:

Thuở ấy tôi đi
với
hào quang trước mắt
ngỡ được tắm trong thế giới diệu kì
ngỡ hái trọn bao trái cây mơ ước.

 

Thuở ấy tôi đi…
mang nông nỗi thời trai trẻ
bơm háo thắng qua vụn vặt kiến thức
nuôi xảo quyệt cơm-áo-gạo-tiền phủ bẩn giấc mơ
.
(Jalau Anưk, “Tạ lỗi”)

Tuệ Nguyên cụ thể và sát sườn hơn:

Tôi: kẻ không là gì cả
cuộc sống ân sủng và tôi được sống
những thân phận trôi giạt nhấp môi nhại giễu cuộc đời nhau
tôi học được cách cười gượng

 

Trong địa hạt của tình yêu chân lý và cái chết
tôi chỉ làm kẻ hành khất đứng chôn chân ở ngưỡng cửa
ôm mang cả nỗi thống khổ lẫn niềm vui… hớ

(Tuệ Nguyên, “Tôi: kẻ không là gì cả”)(9)

Ngay cả Bá Minh Trí, giọng thơ lành là thế, vẫn biết “cười mình”:

Thật cười buồn tôi
cho mình quan trọng dưới đầm lầy mắc cạn

(Bá Minh Trí, “Cười mình”)(8)

Hiểu mình vừa bị đánh bật gốc khỏi nền văn hóa dân tộc qua cơn phấn khích đầy háo thắng trong cuộc vật lộn với cơm-áo-gạo-tiền, trong hướng vọng chiếm lĩnh đỉnh cao “tử số” [mọi sức rướn đang ngoi tìm tử số/ ngậm tiếng hát riêng lẻ – thơ Inrasara], tất cả họ thức nhận mình đang rời xa cội nguồn. Có thể nói, không người Chăm trẻ tuổi nào khi cầm bút viết văn làm thơ mà không ý thức đến tồn vong của văn hóa dân tộc. Tại sao tôi viết thơ? Tại sao là tiếng Việt mà không là tiếng Chăm? Văn bản này dành cho ai? Ai đọc nó? Và nó sẽ đi về đâu, ngày mai?

Cô gái hát khúc dân ca
Mãi nghe sông trôi về biển
Vẫn nghe mùa màng vọng lời ru đứt quãng
Đời mênh mông mênh mông…

 

Sân khấu trần gian
Em gọi vào đâu
?
(Diễm Sơn, “Cô gái hát dân ca”)(8)

Xưa, dẫu thống thiết như Pauh Catwai: Sa bauh cơk tajuh gilaung/ Sibơr ka thraung bhap ilimo Một ngọn núi bảy nẻo đường/ Ngả nào cho thông văn hóa dân tộc? hay trầm thống như Ariya Glơng Anak: Bhian drơp ngap ralo, piơh hapak khing ka thraung Sự nghiệp cao vời, cất giữ nơi đâu cho ổn?(10) – ưu tư về sự tồn vong văn hóa dân tộc luôn đặt lên hàng đầu. Vẫn là câu hỏi đó, từng đặt ra với Glơng Anak, Pauh Catwai hai thế kỉ trước, hôm qua tiếp tục đặt ra với Trà Vigia, Inrasara; và hôm nay với Diễm Sơn, Sonputra… Tất cả – không khác. Một câu hỏi lớn hỏi xuyên thế hệ. Thất bại: hỏi; thành công: vẫn hỏi. Mắc kẹt nơi vùng sâu vùng xa nghèo cực: hỏi; hay bật lên sáng rỡ giữa đô hội phồn hoa, câu hỏi vẫn chưa một lần làm vắng mặt.
Câu hỏi đặc Chăm.
Câu hỏi từ thẳm sâu tâm thức mỗi “đứa con của Đất” dội vọng ra – đã, đang và sẽ mãi mãi đi tìm câu trả lời. Câu trả lời phải là tiếng đáp trả chân thành bật lại từ mỗi sinh thể mang sinh phận Chăm. Từ tâm hồn “tôi”, trước tiên. Sau đó, từ em, từ anh, qua bà con lối xóm rồi lan ra cả cộng đồng.

Phan Rang
nắng, gió và cát
biển xanh mênh mông hát
Hoa Tagalau tím nở đồi hoang
vin bóng những tháp Chàm
Tôi sinh ra nơi ấy!
Lớn lên cùng cây lúa, con mương
Đánh đổi tuổi thơ với khó nhọc
Để rồi chẳng ngâm được Ariya
chẳng viết được một chữ K
như lạ xa với dòng máu Cham

(Bá minh Trí, “Tự bạch”)

Mùa đã thức
Ginơng đã vang
Xaranai đã véo von từ cõi xa xăm gọi bừng mặt trời ngái ngủ
Gọi lùi bước Yang toan đi
Gọi giật hồn tha ma lảng vảng
Gọi ầm ầm tapuk bhaw
Gọi phụt mạch nước ngầm trên mảnh vườn bén liếc gót chân thô

(Jalau Anưk, “Nhắn em”)

Nhưng có phải để bảo vệ bản sắc, muốn ôm khư khư truyền thống mà các thi sĩ trẻ Chăm hãi sợ ngó ra ngoài, không dám mạnh bạo đạp tung cánh cửa truyền thống để bước vào thế giới xa lạ mênh mông ngoài kia không? – Ngược lại là khác.
Ưu tư, tìm tòi và khám phá lại. Tuệ Nguyên đã dũng mãnh dấn bước trên con đường mù mờ đó. Thế giới thực là ở bên kia hiện thực đời sống ngày qua ngày, một thế giới mới lạ nhiều cuốn hút đòi hỏi phương cách chinh phục lạ biệt:

Tôi đang sống cùng thời đại với họ,
nhưng khi họ cứ mải mê dò từng bước để đi thì tôi lại nằm một xó tập bay

Ở đó mọi thứ đã hết còn mang bộ mặt đồng bộ, đơn nhất.

Tôi đi vào con đường không có bảng chỉ dẫn
mỗi lần lầm lạc tôi bắt đầu đánh dấu
.
(Tuệ Nguyên, “Những đoạn trích”)

Không ít thi sĩ trẻ Chăm đã dứt áo ra đi. Bởi nếu chỉ khám phá mình như là mình thì đã đủ chưa? Nếu chỉ gom góp để bảo tồn, họ sẽ làm kẻ giữ kho của cha ông, không hơn. Tiếp thu và sáng tạo. Tiếp thu mình và thiên hạ để làm ra cái mới. Vẫn còn là chưa đủ, khi ta nhìn truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc như là bất di bất dịch. Vì ngay bản sắc cũng là các sáng tạo trầm tích qua nhiều thế hệ. Có thể nói đấy là tiếp thu và sáng tạo được ông cha ta chia ở thì quá khứ. Thế hệ đến sau sẽ gọi là bản sắc điều họ đang dốc sức sáng tạo hôm nay. Bản sắc không chịu dừng lại ở những gì đã có, không cứ mãi vuốt ve lòng kiêu hãnh qua bảo vật cha ông để lại mà phải dám làm ra sản phẩm mới, có đóng góp mới.
Jalau thôi thúc thế hệ đi tới, cũng là cách tự thôi thúc mình:

Đi đi em!
phía bên kia nông hoèn hoẽn sông quê là ùn ùn sóng bể
sau hoang hoãi đêm dài là rực phố đông vui
phố cũng thích Xaranai
phố cũng say đắm lòng tháp cổ
phố cũng rộn ràng với Ginơng
phố cũng trải lòng với điệu múa Apsara
phố cũng hiểu Ariya
phố cũng sụt sùi nghe chuyện ngày xưa bà kể

Đi đi em! Đi đi! – Mang hình em vào phố
tỏa hơi em vào phố
chìa cả sần sùi bàn tay em vào phố
và lớn lên cùng phố
phố sẽ trải ngực mình/ mở đôi vai mình
để lúc mệt nhoài em gối ngủ giấc trinh nguyên

 

phố không nuốt chửng em đâu
bởi phố trú dưới vòm trời – rộng lắm!
mà ở đâu dưới vòm trời cũng có những mái nhà cho cả em, anh

(Jalau Anưk, “Dưới vòm trời là những mái nhà”)

Phố không nuốt chửng em đâu“, thì tại sao phải ngại ngần? Jalau Anưk hỏi thế. Mưtai di kraung, mưtai di thatik/ Thei mưtai di danaw kabaw mư-ik takai palei Chết nơi biển cả sông sâu/ Ai đâu lại chết vũng trâu ven làng – Ông bà Chăm nói thế. Đồng Chuông Tử hiểu thế. Anh đi, dự tưởng một giấc mơ mới, giấc mơ sinh thành từ cái nhìn phóng chiếu về phía xã hội lớn hơn, thuộc giai độ địa cầu:

trong giấc mơ xanh tươi của bầu trời tôi
trái đất đã cạn khô nước mắt từ những tiếng kêu nơi lịch sử tội tình trổ nụ
nhiều đời mây tí tách hiến thân vào nghi lễ cầu nguyện muộn màng
thế hệ bị doạ nạt cấp tính khát khan vòm vọng

một giờ cho trái đất
sự hưởng ứng hờ hững, qua loa, nửa vời
.

một giờ cho trái đất
lồi lõm buồn vui không gian tôi
.
(Đồng Chuông Tử, “Một giờ cho trái đất”)

4. Sống xen cư và cộng cư với người Kinh, tiếp nhận thơ dân tộc Việt ngay từ thuở bập bẹ abc, nhưng Chăm viết khác. Sống dọc bờ biển Duyên hải Nam Trung Bộ, khác với các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hay Tây Nguyên, các thi sĩ trẻ Chăm càng viết khác. Khác từ cách thể hiện đến lối phản biện xã hội.
Phản biện của các cây bút Chăm “đa dạng và đa diện hơn, sâu thẳm và dữ dội, đồng thời sâu cay và chua chát hơn. Sỏi đá và mảnh đất quê hương, ở nơi ấy họ thấy em bé sứt môi, những phận đời trôi giạt, hồi chuông và những mảnh vỡ, nhất là đêm và những giấc mơ. Bao nhiêu giấc mơ đa chiều và vô lượng chiều. Hoang mang, thất thố, hụt hẫng, chán chường, mỏi mệt. Tuyệt vọng và hi vọng. Ngôn ngữ Chăm độn tiếng Việt, mấy đám trẻ học đòi, thế hệ già bảo thủ, những đứa con hư hỏng nổi loạn và bất trị, những đứa con yêu cuồng dại tự do (Tuệ Nguyên), chối từ và ghì níu, ôm ấp nâng niu hay khinh miệt chối bỏ. Tất cả.

Ai như em – dán dính mình bằng quần Jean, áo pull, bầm môi như máu ứa?
Ai như em – bập bẹ Chăm, Kinh, nụ cười ngượng nghịu, dáng đi mùa dịch gia cầm – avian flu?
Ai như em – ném vào nhân gian cái nhìn bạc bẽo, cơn đói tờ giấy bạc, giấc mơ nail-doer, hơi thở overseas
?
(Jalau Anưk, “Ng.”, Tienve.org, 2006)

Đây không phải do khác thế hệ. Hoàng Thanh Hương cùng thời với Jalau Anưk, đề tài thơ mãi quẩn quanh “Lời cầu hôn của rừng”, “Lời tượng”, “Lời ru”, “Tiếng đàn goong”, “Buôn xa”… hay Hoàng Chiến Thắng (1980, Tày) đồng trang lứa với Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, nhưng thơ cứ giản dị, chân chất. Trong khi Hoàng Chiến Thắng mắc kẹt nơi “Bài ca người gánh lúa”, “Đàn bà núi”, “Câu Sli đánh rơi”, “Đi tìm lời ru”, “Gọi ngày xuống núi”, “Vụ mùa”, “Theo bóng núi”, “Xa núi”… không khác một Dương Thuấn thuở nào (Gọi ngày xuống núi, NXB Hội Nhà văn, 2008) để mà ôm ấp hay tiếc nuối, ngợi ca và hi vọng thì Tuệ Nguyên đã đẩy vấn đề tới tận cùng. “Ở nơi ấy như tôi thấy”, “Nghệ sĩ ban mai & bé gái sứt môi”, “Đêm”, “Truyện mi kể”, “Mặc”, “Hắn và giấc mơ”, “Những mảnh vỡ”, “Chúng ta là những kẻ đáng thương”… đầy phản tỉnh và phản biện.
Càng không phải do các cây bút Chăm đã về thành “hội nhập” làm người phố chợ. Hoàng Chiến Thắng không đang là học viên Khoa Viết văn thuộc Trường Đại học Văn hóa Hà Nội là gì! Mà là khác ở tư duy. Thứ tư duy cần đến sự làm chủ vốn từ vừa phong phú vừa trừu tượng. Tư duy đó đòi hỏi cái nhìn khác về thế giới xung quanh. Đa số nhà thơ Chăm không nhìn hiện thực một chiều mà nhiều chiều. Họ hiếm khi tô hồng cuộc sống mà phản biện đời sống xã hội đương đại – phản biện chính con người mình trong xã hội họ đang sống ấy. Nhìn khác và thể hiện khác.
Chính cảm thức mới đã tạo nên sự khác biệt lớn”(12).

5. Tư duy đó đòi hỏi một lối viết khác. Các cây bút trẻ Chăm tiếp nhận cha ông, bên cạnh họ không từ chối vận dụng mọi thủ pháp học được từ bên ngoài. Hiện thực, hiện thực huyền ảo hay siêu thực, hiện đại với hậu hiện đại, cả tân hình thức hoặc thơ trình diễn.

Khi kẻ thắng đuổi kẻ bại chảy lòng vòng
tôi làm kẻ đứng nhìn
khắc ghi tên mình trên mặt biển.

Tôi đi vào con đường không có bảng chỉ dẫn
mỗi lần lầm lạc tôi bắt đầu đánh dấu.

Sự sắp đặt đã đánh lừa cuộc sống
của tôi
của em
và của tất cả.

 

Những kể lể về việc tự nhủ với thành bại vinh nhục
thúc đẩy tôi quen dần với đời sống ma thuật
.
(Tuệ Nguyên, “Những đoạn trích”)

Lối ngắt đoạn để mỗi đoạn thơ có thể đứng biệt lập tách khỏi một bài thơ như của Pauh Catwai được Tuệ Nguyên “tiếp thu và sáng tạo” khá thành công. Đây là thể thơ thích hợp với lối tư duy phân mảnh hậu hiện đại(13).
Nhưng chỉ thế thôi, ngoài một số rất ít người viết Chăm dùng lại thể thơ tự do có vần với nhịp điệu thuận tai, còn lại hầu hết đã cắt đứt với mọi thể thơ “truyền thống”. Họ chọn lối thơ tự do không vần và nhịp chỏi, hoặc thể thơ xuôi khả năng chuyển tải tâm thế giới trẻ trong thế giới hiện tại. Ở đó, Tuệ Nguyên vận dụng nhuần nhị thủ pháp phi tâm hóa thể loại, xóa bỏ ranh giới truyện rất ngắn và thơ. Jalau Anưk xáo trộn cả ba thứ tiếng Anh – Việt – Chăm trong cùng một bài thơ. Lối ngắt câu, vắt dòng, dấu slash, dấu gạch ngang được nhiều người tận dụng – triệt để. Thứ ngôn từ thông tục, thô ráp của đời thường được sử dụng vô ngại bên cạnh những ngôn từ đẹp đầy tính “văn chương”.
Cả cách xuất hiện của các thi sĩ trẻ Chăm cũng khác. Thế giới mở, văn hóa internet ra đời tạo không gian mênh mông cho giới trẻ thể hiện. Có thể in photocopy như Tuệ Nguyên hay in chính thống như Chuông Đồng Tử, hoặc chỉ chọn Tagalau đặc san riêng Chăm để kí gởi sáng tác của mình như nhiều cây bút mới khác. Chưa vội ra mắt, hoặc nếu có thì chỉ chọn mạng internet để đăng tác phẩm mình, như Jalau Anưk(12). Trình diễn thơ, bạn trẻ Chăm cũng không chừa(14). Nghĩa là tất tần tật.
Trụ lại quê hay vào thành phố hoặc chuyển khẩu ở hẳn tại trung tâm văn hóa – kinh tế lớn, với các cây bút trẻ này – không vấn đề gì cả. Nhưng lạ, rất ít thi sĩ Chăm muốn gò mình sinh hoạt hội đoàn các loại.

6. Dù gì thì gì, dẫu có phiêu lưu khai phá tới đâu, dẫu cư trú tận đất trời nào, thi sĩ Chăm thuộc mọi lứa tuổi vẫn chưa bao giờ vĩnh viễn rời xa nguồn cội.

Anh đi
tìm hạnh phúc lứa đôi hay tìm bóng hình apsara vụt mất
trong xa xưa từ nắng, gió, cát
điệu múa kỳ ảo quen thuộc
ngỡ như có âm vang tiếng trống ginơng giữa tiếng mưa tha hương

 

Giật mình…
hồn quê hương chợt thức trong anh
.
(Sonputra, “Mưa, vạt nắng và anh”)

Cát, nắng và gió réo gọi. Vũ điệu apsara vẫy gọi. Hồn quê hương Chăm thức gọi. Một lần trong muôn ngàn lần nữa, họ lần tìm lại con đường quê hương để làm cuộc trở về:

Con đường quê hương lưu lại trong tôi bao cảnh đẹp thơ mộng
cánh đồng trú mình trong vòng tay ôm của dòng sông lở loét và khu rừng còi cọc đâm đầu về ngọn
Cabbang che khuất tầm nhìn
nét nhát chẻ thôn nghèo Caklaing thành hai mảnh
như dang tay đón
như tiễn đưa
những đứa con tha phương
những du khách
cả nền văn minh chỉ còn là vết tạp nham…

Ôi! con đường đã dìu tôi vào đời
nay đã phẳng lặng bởi nét son của đô thị hóa
vác trên mình ngàn khối bê tông của những ngôi nhà hai bên lề
còn đâu những nhịp thở của bước chân cô đơn thì thầm với sỏi đá
còn đâu đàn bò nhởn nhơ với cỏ dại hai bên lề đường
còn đâu giàn nho và đồng lúa xanh ngào ngạt hương
nhưng
giữa dòng người vô tình qua lại

 

Con đường lẩn vào đời sống quê hương. Lặng lẽ.
(Tuệ Nguyên, “Con đường quê tôi”)

Chỉ khi những đứa con tha phương trở về như là trở về, thì mọi truyền thống và hiện đại, tiếp thu và sáng tạo, tiếp nhận tinh hoa thế giới,… thôi còn là những cụm từ, mấy khẩu hiệu vô hồn bật ra ở đầu môi chót lưỡi, mất hết sức nặng vốn có của chúng.
Chỉ khi đó thôi, thi sĩ mới tìm thấy mình an cư ở Nhà như là nhà mình giữa miền sỏi đá Quê hương.

Sài Gòn, mồng 5 Tết Tân Mão 2011
_

Chú thích
(1) Inrasara, Văn học Chăm , Khái luận – văn tuyển, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1994-1995.
(2) Về khác biệt trong cách nói và cách nghĩ giữa Chăm và Việt, xem: Inrasara, “Về hai cách nói”, tạp chí Tia sáng, 20-1-2010.
(3) Nguyễn Văn Tỷ, “Su-on bhum Cam” (“Nhớ quê Chăm”) bài thơ dài 29 cặp lục bát, đăng trong Ước vọng I, nội san của Trường Trung học Pô-Klong cũ.
(4) Nội san Panrang, Tiếng nói của cộng đồng sắc tộc Ninh Thuận, do Thiên Sanh Cảnh làm chủ bút, xuất bản được 8 kì (1972-1974).
(5) Inrasara, “Bốn cứu cánh của đạo sĩ Bà-la-môn & thơ”, Tienve.org, 2008.
(6) Tagalau 1, Tuyển tập sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu Chăm ra đời vào mùa Katê năm 2000, đến 2010 đã ra được 11 số, in ở nhiều nhà xuất bản khác nhau.
( 7) Huy Tuấn sinh năm 1972, Jalau Anưk và Chế Mỹ Lan sinh năm 1975, Diễm Sơn – 1972, Bá Minh Trí – 1979, Đồng Chuông Tử – 1980, Tuệ Nguyên – 1982, Sonputra – 1984, Trà Thy Mưlan – 1988, Thạch Giáng Hạ – 1991.
(8) Các trích đoạn thơ Jalau Anưk, Bá Minh Trí, Sonputra và Diễm Sơn được trích từ đặc san Tagalau Văn học Chăm hiện đại – Thơ, NXB Văn học, H., 2008.
(9) Các trích đoạn thơ Tuệ Nguyên được rút ra từ tập thơ Những giấc mơ đa chiều, NXB Hội Nhà văn, H., 2009.
(10) Xem Inrasara, Văn học Chăm I, Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1994.
(11) Inrasara, “Nhập cuộc về hướng mở”, Tham luận tại Hội thảo khoa học Văn học Nghệ thuật với hiện thực đời sống đất nước hôm nay của Hội đồng Lí luận Phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, Đà Lạt, 12-7-2010; tạp chí Nhà văn, 9-2010.
(12) Tuệ Nguyên, các tập thơ in photocopy: Khúc tấu rối bù, 2007; Ch[tr]ào & Những vết bẩn (2008) và Những giấc mơ đa chiều, NXB Hội Nhà văn, H., 2009. Năm 2008, Tuệ Nguyên đã in ồ ạt sáng tác của mình trên website Damau.org, Tienve.org…. Đồng Chuông Tử, Thèm ăn, NXB Thanh niên, H., 2007; Mùi thơm của im lặng, NXB Hội nhà văn, H., 2009. Các sáng tác của Jalau Anưk chủ yếu đăng trên website Tienve.org, Inrasara.com và đặc san Tagalau.
(13) Từ thể ariya Chăm, hình thành một thể khác: pauh catwai (như thể ariya) mà mỗi cặp lục bát đều đứng biệt lập như một bài thơ hoàn chỉnh, một châm ngôn với đầy đủ ý nghĩa nhưng được kết nối liên hoàn đến cả mấy trăm câu mà vẫn thống nhất ở giọng điệu, tư tưởng. Thử đọc một đoạn trong Pauh Catwai:

Suy tư theo dòng đời
Viết Poh Chatôi qua lời thơ

Đá nổi mà vông chìm
Là không dưng kiến ăn tươi kiến
.
Mưa giọt một giọt hai
Nhặt vào bầu rồi treo lên gióng

 

Rẻo cao vang tiếng sấm
Nguồn sâu xuống tận chốn rừng thưa
.

Tôi đã tiếp nhận “truyền thống” này để làm ra “Bài thơ không viết” (Sinh nhật cây xương rồng, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1997):

Có những bài thơ không viết bao giờ
Không phải bài thơ tôi không muốn viết

Nho độ nhụy đầu mà trời làm rét
Vạn chùm xanh bỗng cọc giữa mùa

Cặp tình nhân hãi cả ước mơ
Chịu chôn đứng bên này bờ thường nhật

 

Ngôn ngữ quẩn quanh hàng rào sự thật
Trăm ngõ ra chẳng lấy một lối vào

(14) Chuông Đồng Tử và Tuệ Nguyên tham gia Trình diễn thơ tại Festival Thơ – Huế 2010.

7 thoughts on “Lặn sâu vào dân tộc để sáng tạo cái mới

  1. Anh Inrasara đúng là khôn ngoan. Anh không cần phát biểu chống ai, không cần theo phe nhóm chống nhau vô ích. Hãy để cho tác phẩm mình chinh phục độc giả. Anh cứ từ từ tiến từ tác phẩm này đến tác phẩm khác, viết từ tiểu luận này đến tiểu luận khác. Anh viết về rất nhiều đề tài. Bài nào cũng hay và rất đáng đọc. Thái độ khôn ngoan như vậy là hay. Anh làm vậy là vừa có lợi cho cá nhân anh và cộng đồng Chăm. Bài phê bình và tiểu luận của anh còn lợi cho cả văn học Việt Nam. Tôi ủng hộ thái độ và cách làm việc của anh.
    Cứ như vậy, Inrasara.
    Trần Xuân

  2. Nhà thơ khen bọn trẻ quá tôi sợ bọn trẻ hư. Nhắc lại chuyện cũ, có người phê bình nhà thơ quá khen 1 họa sĩ trẻ nên cô ta sinh nổ lệch lạc gây hại. Lớp trẻ Chăm cũng có viết nhiều bài thơ dở, tôi đọc gặp đó. Yêu cầu nhà thơ chê các bài đó đi để họ học tập và biết mình hơn. Đwa karun!

  3. Qua phân tích của Inrasara phải công nhận thơ trẻ Chăm rất hiện đại. Vài bạn trẻ đã có tập thơ in. Bá Minh Trí tôi nhớ có Giải khuyến khích báo Tuổi trẻ Bút mới khi mới xuất hiện. Thơ Jalau Anưk rất trí tuệ. Nhiều nữa…
    Tôi rất muốn đọc các bài thơ được bạn trẻ Chăm viết bằng tiếng mẹ đẻ được dịch sang tiếng Việt. Nhà thơ Inrasara có thể làm chuyện này không nhỉ?
    Thân mến

  4. Gởi nhà thơ Inrasara

    Một số độc giả Chăm có đọc Luận án Hôn nhân và gia đình của TS Bá Trung Phụ thấy nhiều điều sai trong đó. Tác phẩm mới của TS Thành Phần cũng có rất nhiều cái sai mà đọc giả bình thường cũng thấy. Sách của TS Phú Văn Hẳn cũng vậy. Mới nhất tôi xem phim làm về người Chăm ở Phan Rí, ông Hẳn nói về kèn Saranai có 2 chi tiết sai mà ai cũng biết: “Thổi kèn này là cha truyền dạy cho con”, “Thổi kèn rất khó, mỗi làng chỉ có một người”. Cả hai điều này đều sai.
    Vậy mà tôi không thấy Thạc sĩ Văn Món phê bình. Hoặc là anh Thạc sĩ này sợ ba ông Tiến sĩ, hoặc là có mùi phe phái. Bởi tôi biết anh đã phê bình rất nhiều người.
    Sách của anh này cũng phạm nhiều sai lầm nhiều người than phiền.

    Riêng nhà thơ kiêm nhà nghiên cứu văn hóa, nhà phê bình văn học Inrasara thì 4 năm nay không lên tiếng về ai cả. Anh có uy tín nhưng anh biết sai mà không chịu lên tiếng về mấy điều sai kia, thì công chúng Chăm biết làm sao? Vậy là phó mặc ai hiểu sao hiểu ư? Tôi thấy anh cố ý tránh như vậy là chưa làm đầy đủ trách nhiệm.

    Nhà thơ hay khen nhiều quá chưa hẳn là tốt đâu.
    Viết về văn hóa Chăm thì rất khó. Các anh làm thì đồng bào rất cảm ơn. Sai thì chỉ ra nhẹ nhàng để cùng giúp nhau sửa sai. Tôi nêu chuyện này ra là ý tốt.

    3 yêu cầu của tôi:
    – Yêu cầu đăng ý kiến này.
    – Yêu cầu không biên tập sửa đổi ý kiến tôi.
    – Yêu cầu nhà thơ trả lời cho tôi và bà con rõ.

    Thân ái.
    Japot

  5. Japot thân mến
    Trước tiên, mong bạn rất bình tĩnh. Tôi xin đi vào mấy điểm sau:

    1. Về việc phản hồi không được đăng, tôi đã vài lần nêu lí do rồi, miễn nhắc lại. Bạn mới “bị” lần đầu mà đã trách BBT, thì có lẽ hơi nóng vội. Mới nhất, BBT cũng đã từ chối 3 “phản hồi” của Ronaldo_VN mà. Nhưng khi ngôn từ bạn này bớt gay gắt đi, thì BBT đã đăng lại.
    Dẫu sao, khi bị từ chối lần đầu, bạn đã viết lại với từ ngữ bớt căng đi, thì ý kiến bạn được đăng ngay rồi đó mà.

    2. Dù bạn yêu cầu không sửa, nhưng tôi không thể không biên tập, mong bạn cảm thông. Đây là mạng nhiều người đọc, không chỉ Chăm mà cả tộc khác nữa, ta nên dùng từ nhẹ nhàng để mọi người tiếp thu. Tôi có biên tập (như bạn biết) nhưng vẫn giữ đúng ý bạn.

    3. Về các sai sót (công trình khoa học nào cũng không thể tránh) của các anh mà bạn nêu tên ra, theo tôi bạn nên viết thư thẳng cho họ thì hay nhất. Bạn nói nhiều người cũng thấy sai, là chưa phải đâu. Hãy nói theo ý mình đi, đừng gom “nhiều người Chăm” vào. Biết đâu chỗ bạn bảo họ sai, thì chính bạn lại sai. Cẩn thận không thừa đâu.

    4. Tôi không tham gia viết sửa sai bất kì ai nữa, có lí do tế nhị, bạn à. Tôi có nêu một lần rồi, xin không nói lại. Bạn có trách “chưa làm tròn trách nhiệm” tôi cũng chịu vậy.
    Theo tôi:
    Mỗi người Chăm
    HÃY YÊU THƯƠNG VÀ KHIÊM TỐN HỌC HỎI.
    HÃY MIỆT MÀI TRONG SÁNG TẠO MÀ KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN NGƯỜI KHÁC NỔI TIẾNG TỚI ĐÂU, UY TÍN CỠ NÀO.
    HÃY VIẾT TÁC PHẨM THẬT HAY VÀO, CÁC TÁC PHẨM DỞ TRƯỚC ĐÓ SẼ ĐI VÀO HẬU TRƯỜNG LỊCH SỬ THÔI.

    Thân mến
    Inrasara

  6. Bạn đọc thân mến
    Sau khi tôi trả lời Japot, tôi nhận được 2 email, hỏi:
    – Cụ thể đâu là vấn đề tế nhị?
    – Nếu vượt bỏ chuyện tế nhị mà có lợi cho cộng đồng, nhà thơ không làm sao?
    Tôi xin trả lời 1 lần luôn là:

    TÔI KHÔNG BAO GIỜ MUỐN LÀM TỔN THƯƠNG BẤT KÌ AI NỮA.
    Đây cũng là nguyên văn câu trả lời của Zidane sáng nay đăng trên báo Thể thao – Văn hóa. Riêng với cá nhân tôi, không có phê bình nào nghiêm túc và đầy thiện chí mà làm tổn thương tôi cả. Và tôi nghĩ, nếu im lặg, tôi làm lợi cho cộng đồng nhiều hơn là lên tiếng.
    Xin các bạn thôi trở lại câu hỏi này nữa nhé.
    Đwa karun.
    Sara

  7. Tôi thấy người Chăm nghiên cứu hơi nhiều, có cần thiết vậy k?
    Tôi thấy người Chăm làm thơ cũng hơi nhiều…
    Cần tập trung vào sáng tạo. Nên đề tài Người Chăm có thông minh k? do Inra đặt ra rất đáng suy ngẫm.

Leave a Reply to Sara Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *