Không ít bạn trách tôi mất giờ cho thơ tiếng Cham
có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?
nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó
dù chỉ còn dăm ba người
dù chỉ còn một người
hay ngay cả chẳng còn ai.
[Tháp nắng, 1996]
Thời hiện đại, người ta học tiếng Việt là tiếng phổ thông ở Việt Nam, để giao tiếp, làm việc, viết văn; nếu tham vọng, luyện cho tinh tiếng Anh là ngôn ngữ mang tính quốc tế, để mở ra với thế giới bên ngoài tìm kiếm cơ hội lớn hơn, chớ ai [dại] lại đi học tiếng với chữ Cham? Chẳng tích sự gì ‘ôh buh tamư gok lithei hu‘: chẳng bỏ vào nồi cơm được – như ông bà Cham nói; thêm mấy ông ‘trí thức’ cãi vã ỏm tỏi về chữ chuẩn hóa của Ban Biên soạn sách chữ Chăm chẳng biết đâu là điểm dừng. Thôi thì, hay hơn cả – bỏ quách đi cho xong.
Có phải vậy không? Và có dễ dàng như thế không?
Cham đồng hóa ‘akhar‘ với tri thức (‘Hu akhar cek di ruup‘: Có chữ, kiến thức cất trong mình). Con người không tri thức như khúc gỗ mục, chỉ đáng vứt đi, thế nên trong đám tang có nghi thức ‘Jap inư akhar‘ để xóa mù cho người chết – một lối xóa mù rất… Cham. Còn hôm nay, tri thức ư? Thu thập qua ngôn ngữ nào mà chả. Tiếng Việt, tốt; tiếng Anh càng tốt hơn – mênh mông thứ có sẵn ở đó.
Thời hiện đại, lối nghĩ ‘Thei thau akhar bbang ngok dook dahlau‘: Ai biết chữ ăn trên ngồi trước, cũng đã lạc thời! Tiếng Anh, tiếng Việt thì được, chứ chữ Cham đừng hòng. Càng giỏi tiếng Anh ta càng cơ hôi kiếm việc làm tốt hơn, lương cao hơn, bản thân được trọng vọng hơn.
Vậy, sao phải học tiếng và chữ Cham?
Về lơi ích thực tế, so với tiếng Việt hay tiếng Anh, chữ Cham lép vế đến trẻ con cũng thấy. Tuy nhiên nghĩ rằng cho con cái học và nói tiếng Việt ngay từ bập bẹ, để trẻ tập trung giỏi một thứ tiếng (Việt) trước, sau đó học tiếng mẹ đẻ (Cham) cũng không muộn, là lầm to! Vài phụ huynh đời mới nghĩ và làm hệt thế, ngay trong làng Cham giữa lòng cộng đồng Cham. Thế rồi, nhìn vào thành tích học văn của đám trẻ đươc đào tạo từ “lò” nhân dân tiến bộ Chàm này, ta thấy ngay!
Trong khi đó, các nhà tâm lí học cho biết, học song ngữ bilingual giúp trẻ vận dụng trí não tối đa, từ đó kí tính trẻ phát triển. Sự thể đặt trẻ vào hoàn cảnh thường xuyên so sánh đối chiếu giữa lối nghĩ, lối nói của hai dân tộc.
Trẻ tò mò muốn biết tại sao chị người Việt nói trời đất ơi, còn bạn Cham kêu trời biển ơi ‘lingiik tathiik lơy‘.
Về mặt tâm lí xã hội, không ít sinh linh Cham cảm thấy xấu hổ khi nói tiếng mẹ đẻ với người ngoài, sợ bị phát hiện mình “sắc tộc”, nhất là mấy thanh niên choai choai học tán gái. Trẻ con mặc cảm kiểu khác, khi xung quanh nói tiếng Việt, cháu lại xài tiếng lạ. Mặc cảm ngày càng lớn dậy khi chúng trưởng thành, nếu ta không sớm có cách “giải”.
Nguy cơ chối luôn nguồn cội là khó tránh.
Phải học thôi.
Bởi trưởng thành, thế nào rồi ta cũng phải một, hai lần đung trận, và giât mình nhìn lại ta. Ta biết lí lịch ta: dân tộc Cham, quốc tịch Việt Nam. Cham như một dấu thập đóng, in trên trán ta – không thể chối, không thể xóa. Dù [có đánh vẫn] không khai, ta cũng bị phát giác qua thể tạng: Với dân Tây, ta thấp bé, da vàng, mũi tẹt… Với cộng đồng dân tộc Việt Nam, ta da nâu nè, miệng rộng nè, lông mày rậm với mái tóc ‘poh jiên‘ rất oách nữa… Giấu sao mà giấu! Căn cước tính luôn theo đuổi và đeo bám ta cho đến chết.
Vậy, khi không thể chối, bất khả lùi, học quách tiếng Cham đi cho rồi.
Đẩy vấn đề đi xa hơn, biết song ngữ ta sở đắc được hai nền văn hóa bicultural, từ đó ý thức liên văn hóa được khơi dậy sớm trong ta. Nó làm cho đời sống ta phong phú hơn, ta không phải đối xử phân biệt với nền văn hóa khác ta, qua đó tinh thần dân chủ nẩy mầm và mở rộng.
Bạn thấy đó, thế giới đang nỗ lực bảo vệ sự đa dạng sinh thái bằng bảo tồn loài vật quý hiếm. Ngôn ngữ dân tộc thiểu số trên thế giới là “loài” quý hiếm nhất trong những loài quý hiếm, mất đi là bất khả phục hồi.
Bạn có còn mặc cảm nữa không?
Tiếng và chữ mẹ sinh ra bạn có đáng cho bạn mặc cảm không?