– Cham lấy Việt, làm gì khi chết?
– Ở bài trả lời phỏng vấn mươi năm trước, tôi nhấn về “làm gì khi sống” mà chưa bàn về “làm gì khi chết” – là câu hỏi rất đáng đặt ra, khi nó đang làm vấn đề. Tại sao?
Ông chồng Cham mất đi…
[1] bà vợ không chịu chỉ cho nấm mồ để họ hàng cải táng mang về làm đám thiêu, mà chỉ khi đút túi tiền chuộc, mới chịu. Tội hôn!
[2] hai bên thỏa thuận cho ông nằm tạm “xứ người” để trọn nghĩa vợ, đạo con hứa dăm năm sẽ cho ông “về” nhưng rồi thất hứa. Ông “đi” rồi lấy đâu mồ mả cho vợ con tôi giỗ năm giỗ tháng? Kẹt thế chứ!
[3] ông được về trong hòm gỗ ngay sau ba ngày, về đến làng thì Cham cho “nằm ngoài làng”, rồi tháo nó ra làm lễ tắm rửa cho ‘kaya amưh’ (của vàng) và ôi thôi, vợ con người ta thấy kinh quá, giận rồi bỏ đi. Chúa tôi ơi!
Mới ba ví dụ điển hình mà đã vậy.
Làm gì? Xin đọc qua bài trả lời phỏng vấn phía dưới, còn muốn giải quyết trước mắt, đức ông chồng kia khi còn sáng nước, hãy làm DI CHÚC giùm, nhé!
Tóm lược Inrasara trả lời Đài tiếng nói Việt Nam, 24-6-2011:
Khác biệt trong gia đình mẫu hệ Cham.
Người Cham thuộc chế độ gia đình mẫu hệ. Tất cả đám cưới, đám tang hay phong tục tập quán đều theo họ mẹ.
Người con trai Cham lấy vợ, theo vợ về nhà cha mẹ bên vợ, sống ở đó cho đến mãn đời. Vài chục năm qua, theo xu thế mới, đôi trẻ có thể tách ra ở riêng nhưng họ vẫn sinh hoạt theo phong tục tập quán bên họ mẹ. Đó là nét riêng chính yếu nhất của chế độ gia đình mẫu hệ Cham.
Nét riêng này thế hiện rõ nhất qua đám tang. Khi mất, đàn ông Cham đều trở về nằm trong nghĩa trang tộc mẫu, Kut của người Cham Bà-la-môn hay Ghur thuộc Cham Bà-ni.
Một điều đáng chú ý là, chế độ gia đình mẫu hệ ấy rất biết đùm bọc nhau. Đùm bọc đến 20 năm trở về trước, xã hội ấy không có hiện tượng ăn xin hay đĩ điếm. Cũng ít xảy ra hiện tượng li dị, nếu có, dù tài sản vẫn được phân chia đồng đều thì người đàn ông Cham vẫn vui vẻ giao lại tất cả cho người vợ chăm sóc con cái.
Đổi mới, chế độ gia đình mẫu hệ Cham có vài chuyển biến, dẫu sao các đặc trưng truyền thống ấy vẫn được lưu giữ khá đậm nét.
Về hôn nhân dị chủng.
Hai thập niên sau khi đất nước đổi mới, môi trường nông thôn Cham bị phá vỡ. Hàng ngàn thanh niên Cham tràn vào thành phố lớn kiếm việc làm, con số tăng mỗi ngày. Ở quê, quá trình đô thị hóa ngày càng hiện rõ mồn một: người thì đông mà ruộng đất thì teo.
Thanh niên từ thành phố về quê nhà trong các ngày lễ mang theo nếp sống mới lạ từ đô thị. Trong đó có hôn nhân dị chủng.
Toàn cầu hóa, hôn nhận dị chủng là không thể tránh. Người Việt với các dân tộc khác trong đất nước Việt Nam hay người nước ngoài, Cham với Việt hay các dân tộc khác. Không ai có thể ngăn cản và cũng không nên ngăn cản. Điều đáng nói là làm thế nào để đôi trẻ hòa hợp trong cuộc sống gia đình mà không mất đi bản sắc văn hóa dân tộc của hai phía.
Với xã hội Cham, quá trình đô thị hóa quá đột ngột. Đột ngột gần như lứa trẻ không chuẩn bị gì cả. Nhất là với hàng con cháu còn chưa qua trình độ phổ thông thì càng – cả về tâm lí cũng như kiến thức tối thiểu. Họ gặp nhau, yêu nhau rồi đi đến quyết định chung sống. Xung đột văn hóa là nguy cơ khó tránh, từ đó sinh ra ức chế tâm lí.
Xung đột dẫn đến: Hoặc đổ vỡ, hoặc một trong hai buộc phải chọn một phía để có thể gọi là hòa hợp. Chính nơi ấy, phần thiệt thòi thường thuộc về phía yếu, phía thiểu số.
Như vậy đôi trẻ ấy được gì? Thay vì làm phong phú tâm hồn và cuộc sống đôi lứa, họ đánh mất sự đa dạng văn hóa. Đa dạng mà cha mẹ hai bên đã tiếp nhận từ tổ tiên họ.
Hôn nhân hợp chủng là hiện tượng xảy ra từ lâu với thế giới, ở đó không ít cặp – bởi được chuẩn bị kĩ, họ đã làm nên cuộc hòa hợp tốt lành. Tình trạng này ở Việt Nam mới xảy ra vài chục năm nay, vấn đề không phải là nên hay không nên, mà là giáo dục để các bạn trẻ thuộc nhiều dân tộc khác nhau quyền tự do chọn bạn đời, xây dựng gia đình hạnh phúc mà không đánh mất đi di sản văn hóa tinh thần quý giá từ hai bên.