Bài viết đã được báo Tuổi trẻ in một phần.
Những tưởng năm 2014 là năm của mấy tai ương liên quan đến thế giới chữ nghĩa, cụ thể hơn – thế giới sách. Tai ương từ tắc trách cá nhân: như các loại “Từ điển Vũ Chất” với bạt ngàn định nghĩa tùy tiện; cho đến sai phạm mang tính cơ chế, như Danh nhân và thời đại và Đại quang Việt sử đầy dẫy những “sai sót nghiêm trọng về nội dung, xuất bản trái phép… chủ yếu cũng do chuyện mua giấy phép mà ra”. Tai ương từ công trình nghiên cứu cho đến sách dành cho trẻ em hiện nay, đến báo Tuổi trẻ cũng phải giật tít: “Tràn lan sách nhảm”!
Nhưng không. Giữa mấy vũng tối u ám ấy, không gian sách Việt Nam vẫn bật lên đây đó nhiều, khá nhiều mảng sáng.
Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX của Giáo sư Lê Thành Khôi, do nhà xuất bản Thế Giới in tháng 8-2014, là một. Lâu nay các chuyên khảo mang tính kinh điển về lịch sử và văn hóa Việt Nam của Giáo sư chỉ được giới chuyên gia biết đến qua nguyên bản tiếng Pháp; rất nhiều độc giả “nghe nói” hay đọc qua vài trích dẫn, nhưng vẫn kính nhi viễn chi. Mãi hôm nay lần đầu tiên “kiệt tác” về sử học này xuất hiện đầy đủ qua bản tiếng Việt. Sự kiện này, ngoài đóng góp về chuyên môn, còn là dấu hiệu về tinh thần mở trong thái độ chấp nhận nhiều chiều nhìn không những về lịch sử, mà còn về các lĩnh vực khác nữa. Ở ngày mai.
Cũng thuộc lĩnh vực nghiên cứu lịch sử, nhưng nóng và thời sự hơn, khi vào những ngày cuối năm Phạm Hoàng Quân cho ra mắt công trình Hoàng Sa – Trường Sa, nghiên cứu từ sử liệu Trung Quốc, do Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ ấn hành, 2014. Phạm Hoàng Quân thường bị gán cho biệt hiệu “cụ đồ hiện đại” do cái lập dị “ngược thời” trong sinh hoạt chữ nghĩa của anh. 10 năm lội ngược dòng lịch sử – không phải lịch sử Việt Nam, mà chính là lịch sử Trung Hoa – 10 năm âm thầm trì trì với thái độ nghiên cứu cẩn trọng, nghiêm túc để “chứng minh rằng qua nhiều nguồn sử liệu Trung Hoa, nhà nước Trung Quốc trong lịch sử từ thời nhà Hán đến thời nhà Thanh chưa từng quản lý và xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và vùng biển Đông Việt Nam hay vùng biển Đông Nam Á” – như lời tự bạch của tác giả. Đây là cách làm khác đời, thể hiện sự dũng cảm mang tính khai phá hiếm có.
Nếu ở mảng nghiên cứu, công trình của Giáo sư Lê Thành Khôi là sách dịch thì bên sáng tác, Mình và họ (NXB Trẻ, 2014), của Nguyễn Bình Phương, là “tái bản” tiểu thuyết Xe lên xe xuống đã từng xuất hiện ở nước ngoài ba năm trước đó. Tái bản là phải! Bởi không thể để độc giả trong nước phải tìm đọc một sáng tác sáng giá của tác giả quốc nội được in ở nước ngoài. Độc giả cần đọc Mình và họ, để nhận biết muôn mảnh đời với mảnh làm, mảnh nghĩ vương vãi, hỗn độn đến mịt mùng nhưng đầy cuốn hút qua câu chuyện kể về chuyến đi lên đi xuống của nhân vật Hiếu, người em một tù binh trong chiến tranh biên giới 1979-1989. Tiểu thuyết đẫm tính hậu hiện đại này không ý đồ vẽ lại cuộc chiến, mà qua nó và trong nó, thân phận con người được phô bày đa góc cạnh với những dằn vặt, oái ăm, đau khổ nhân tạo không đâu xa mà chính từ những hành xử xấu ác của họ. Dẫu sao qua vùng tối ám gần như tuyệt vô hi vọng đó, Mình và họ vẫn bật lên chất nhân văn đáng cho ta suy ngẫm. Đây là tác phẩm đặc biệt được thể hiện qua kĩ thuật ngoại hạng, một cuốn sách không thể bỏ qua.
Cũng theo dòng hậu hiện đại, nhưng Lê Anh Hoài khác hơn. Tập truyện ngắn Trinh nữ ma-nơ-canh, do NXB Trẻ ấn hành quý IV, 2014 là câu chuyện hiện tại. Của đời sống phố thị Việt Nam hiện đại. Từ “Trái tim trong W.C”, “Cuộc đời khốn nạn của một bản thảo”, “Trinh nữ ma-nơ-canh”, cho đến “Bầy mắt”, đời sống phố thị Việt Nam được phơi lộ ở các khía cạnh vừa hiện thực vừa siêu [phi] thực đồng thời. Như câu chuyện của Mr. T, chỉ vì muốn “sở hữu tuyệt đối với những giá trị sáng tạo” mà “trong đầu Mr. T bỗng lóe lên một sáng kiến mà càng lúc, theo thời gian trôi qua, nó càng trở nên vĩ đại: Ta sẽ sở hữu những từ riêng do chính ta nghĩ ra.” Từ đó, “Công ty Khai thác và Phát triển ngôn ngữ” ra đời và phát triển, phát triển với bao hệ lụy của nó. Hệ lụy gây buồn cười, được Lê Anh Hoài kể bằng giọng bỡn cợt. Bỡn cợt xuyên suốt tập truyện – đậm nhạt, sâu nông, rộng hẹp khác nhau. Bỡn cợt từ câu chuyện hay tên truyện, và nhất là giọng điệu, bỡn cợt bao nhiêu điều người phố thị hiện đại vốn cho là nghiêm nghị, nghiêm trọng. Đó cũng là cách làm lâu nay của nghệ sĩ này, ở nghệ thuật trình diễn, và cả với tiếu thuyết.
Việt Nam truyền thống thơ, là điều miễn bàn. Mấy năm qua, thể loại này bị ghẻ lạnh, phần do dư luận “nghe nói” thơ Việt nhàn nhạt, phần nữa – đáng nói hơn, do ta có thói quen ngóng về phía “chính thống”: giải thưởng hay sách in giấy. Dẫu sao, truyền thống lâu đời không dễ gì bị gẫy đổ chỉ qua đêm ngủ dậy! Liếc qua giá sách thơ, còn đó bao nhiêu tập được giữ lại.
Du Nguyên, tiếp Mục: Xó xỉnh. Cười (NXB Hội Nhà văn, 2011), Khúc lêu hêu mùa hè (NXB Hội Nhà văn, 2014), là tập thơ gây ấn tượng đậm. Sau một thời gian dài tụng ca hoan lạc đầy hời hợt, văn học Việt Nam đã từng thèm “buồn”. Thèm buồn, thì được… buồn. Buồn cấp tập, đến hình thành một quan điểm vô bằng: thơ hay thì phải buồn. Ở đó không ít buồn nhân tạo và giả mạo. Ở Du Nguyên thì khác: đó là “buồn không địa chỉ”, là cảm trạng sâu thẳm của hiện sinh con người. Con người khuynh hướng chạy trốn nó bằng hòa nhập vào đám đông, nơi đó thế giới thủ sẵn bao nhiêu là phương tiên: phim ảnh, sách báo, du lịch, và cả tán gẫu trên mạng. Rất ít người dũng cảm ở lại. Du Nguyên nằm trong số ít đó. Khúc lêu hêu mùa hè hát lên từ cảm trạng hiếm hoi được thể hiện bằng kĩ thuật chín đầy của một thi sĩ tuổi đời hãy còn khá trẻ. Tập thơ ấy: giải thưởng trung ương hay địa phương – không. Là điều may mắn cho Du Nguyên! Nói may mắn, bởi nếu “rủi ro” nó được gán mác nào đó, nói khác đi – khi đã tìm ra địa chỉ, giọng thơ kia sẽ được “giải thoát” khỏi con đường độc đạo mình từng “bị” chọn lựa, để hòa vào cái chung. Như vô số giọng thơ trẻ khác, của một thời. Không nhãn mác, Du Nguyên ở lại cô đơn với “buồn không địa chỉ”.
Bên cạnh Du Nguyên hiện đại, là Nguyễn Thanh Mừng cổ điển. Cổ điển với Ngữ pháp gió, in ở nhà xuất bản Hội Nhà văn, vào chung khảo Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2014. Cổ điển rất mực từ bài thơ lục bát đầu tiên “Bên sườn núi”: “Rằng từ sỏi đá sim mua/ mẹ tôi đã xếp nắng mưa thành làng”, cho đến bài lục bát cuối cùng của tập: “Thi pháp mật ong” “Ký tên lên gió xuân tươi/ đất trao quyền bính nhà trời trả lương”. Lục bát mỗi bài ba khổ, mỗi khổ hai cặp, không thừa không thiếu. Chuẩn mực từ cấu tứ, gieo vần, cho đến lối trình bày. Không bài nào không đáng đọc, – hay nói theo cách bình tán cũ – không bài nào không thể nhặt ra được câu thơ đáng nhớ. Câu cuối ở bài lục bát chẳng hạn: “ngọt ngào không lẫn với không ngọt ngào”. Không ít người ngắt nhịp: “ngọt ngào/ không lẫn với/ không ngọt ngào”; còn nếu ngắt câu thơ thành: “ngọt ngào không/ lẫn với/ không ngọt ngào” ý thơ sẽ mênh mang hơn, có lẽ.
Cuối cùng, theo tinh thần phi tâm hóa hậu hiện đại, không thể bỏ qua thế giới văn chương mạng. Năm 2014, Lê Vĩnh Tài đã tạo nên một hiện tượng có một không hai. Sung mãn và sáng tạo, thi sĩ đất Tây Nguyên này phiêu lưu từ hệ mĩ học lãng mạn hậu thời, sang hiện thực đến hiện đại, và hậu hiện đại. Đến hậu hiện đại, trong không gian mở – không chỉ trên Website, mà ở Facebook – hàng loạt bài thơ hình ảnh, truyện mini của anh xuất hiện ngày qua ngày cấp tập, không ngơi nghỉ. Các sáng tác với nhiều khai phá động cập đến hiện thực đời sống và văn chương đương thời – nếu ta cứ muốn văn chương phải bám vào hiện thực – kéo theo những comments tương tác với những lối nhìn đa chiều, thú vị. Thời gian gần đây, Lê Vĩnh Tài – trên nền hiện thực đa diện của cuộc sống đương thời – đã hư cấu nên nhiều câu chuyện hư hư thực thực qua giọng văn bỡn cợt độc đáo, và cuốn hút.