Cận Tết 2005, với bạn thân lâu ngày gặp lại trong một quán bia hơi, tôi thao thao về Tagalau. Về những cây bút đầy triển vọng của Tagalau và về tôi. Hi vọng Cham và kì vọng tôi. Chìm dưới tuyệt vọng đen rồi trồi lên đầy dũng mãnh của tôi, tiếng xấu về tôi và lời khen tặng tôi, văn chương và văn hóa, hiện tại với tương lại… Đột ngột, anh bạn ngắt lời tôi:
– Mầy chớ tưởng mình ngon, Tagalau không có gì ghê gớm lắm đâu!
– Không có gì ghê gớm còn đỡ, mình thấy nó chả là gì cả!
– Không là gì cả à? Mầy nói thật?
– Ừ… thì mình có nói giả bao giờ đâu!
– Tao không hiểu quái mầy cả! Không là gì sao mầy bỏ cả công sức hay tiền bạc ra làm?
– Đấy, phi lí vậy đó. Cứ sống cho hết nỗi sự phi lí ấy, rồi hiểu!
Vậy thôi, anh bạn nín thinh. Anh bạn không chịu nổi giọng kể khoái hoạt của tôi. “Khi thắng không khoe khoang, khi thua luôn luôn vui vẻ”, – bài học lớp Tư, tôi nhớ. Nhưng tôi khác. Thua thì dễ thương, thắng lại rất dễ ghét! Thua, tôi kêu lên: ông thật cừ, có tầm lắm; thắng, tôi gáy: mới vận dụng nửa công lực thôi mà bồ liểng xiểng rồi thì chơi thế nào mà chơi!
Khác với anh bạn tôi khi xưa ở Ban Biên soạn sách chữ Chăm, thua ba ván cờ tướng mà đắng cơm chiều đến chập chờn giấc ngủ tối. Khổ thế!