Inrasara: Vài giải minh qua ngộ nhận về hậu hiện đại Việt Nam

Bài báo “Ai trách nhiệm ‘định hướng’ thẩm mĩ độc giả” đã đăng ở vài trang mạng. Sau đó, do đề tài “thơ thần” đương nóng ở website Lethieunhon.com, tôi mới gửi đăng tại đó vào cuối tháng 8-2012. Ngay tức thì, bài viết nhận được nhiều phản hồi từ bạn đọc, trong đó hai ý kiến phản đối tôi về hậu hiện đại, là ý rất phụ tôi chỉ nhắc lướt qua. Thế là nhà thơ Triệu Lam Châu – “từ năm 2004 tới giờ, khi đọc những bài thơ mang cảm thức hậu hiện đại từ nhiều nguồn, dẫu trong lòng tôi (một bạn đọc chân chính) bùng phát rất nhiều nỗi bức xúc – nhưng vẫn cố kìm nén và chờ đợi… chờ đợi mãi, cho đến tận hôm nay (8-2012)” – mới “mạnh dạn” trao đổi về hậu hiện đại, với tiêu đề khá sốc: “Phải chăng thơ hậu hiện đại Việt Nam chấp nhận sự vô văn hóa?” đăng ở Trithucdantocthieuso.net, 2-9-2012.

Tôi có nói lại theo thể cách gạch đầu dòng(*). Tôi nghĩ, thuyết lí như vậy đã tạm đủ, Triệu Lam Châu cũng nhận như thế. Nhưng do anh cho biết “phần quan trọng nhất là thơ hậu hiện đại Việt Nam chấp nhận sự vô văn hóa” thì tôi “chưa phát biểu gì”, cho nên việc giải minh thêm là cần thiết.

Biết thêm: Triệu Lam Châu không phải nhà phê bình, càng không là người nghiên cứu lí thuyết văn học, thế nhưng phát biểu của anh là khá tiêu biểu cho tiếng nói trái chiều về hậu hiện đại ở Việt Nam được đăng tải rải rác trên báo chí chính thống, non chục năm qua.

 

Mở…

Có thể nói, chữ DE (giải) mã hóa được tất cả khía cạnh của vấn đề hậu hiện đại: trong sống, từ lối nghĩ cho đến thái độ ứng xử hay hành động; trong văn chương, từ thủ pháp cho đến giọng điệu… Giải trung tâm là “hành động” chủ đạo của hậu hiện đại. Nó đạp đổ mọi sự phân biệt đối xử trung tâm và ngoại vi các loại: Châu Âu so với phần còn lại của nhân loại, Đông Nam Á so với thế giới, tiếng Việt với tiếng Anh, dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, nữ với nam, vùng sâu vùng xa với trung tâm văn hóa lớn, ngôn từ bình dân với ngôn từ [được cho] là sang trọng… Nó tôn trọng những Cái KHÁC The Others, đấu tranh cho những Cái Khác tồn tại bình đẳng.

Đó chính là Đức lý hậu hiện đại!

Bởi xã hội Việt Nam hôm nay còn lệ thuộc và tôn vinh những “trung tâm” (các trung tâm văn hóa lớn, tiếng Việt là ngôn ngữ dân tộc đa số, nam quyền, chính thống, trung ương, nhà văn đã là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam,…) do đó nghệ sĩ hậu hiện đại với tư cách kẻ nhập cuộc, không tránh khỏi thái độ phản biện xã hội. Điểm nổi bật nhất của sáng tác hậu hiện đại Việt Nam là tính chính trị; giọng điệu dễ nhận ra nhất là giễu nhại; xu hướng chung nhất của tác giả hậu hiện đại Việt Nam là đứng hẳn về phía “ngoại vi” (vùng sâu vùng xa, ngôn ngữ đời thường, những thân phận bên lề, người nữ, nạn nhân của sự độc đoán, phi chính thống, văn chương vỉa hè, tiếng nói dân tộc thiểu số…). Phản ứng lại mấy nỗi kia, hậu hiện đại Việt Nam thừa sự thiên lệch bên cạnh không thiếu tính quyết liệt, thiên lệch và quyết liệt lắm lúc thành quá khích – như thể dùng độc trị độc. Đây là vài điểm đáng lưu ý, khi nhận định hậu hiện đại Việt Nam trong đối sánh với sáng tác hậu hiện đại thế giới.

1. Về truyền thống

Triệu Lam Châu viết: “Song tôi đinh ninh rằng, theo thói quen thưởng thức thơ truyền thống, thì quảng đại quần chúng yêu thơ sẽ cho rằng: Đấy là loại thơ… bỏ qua giá trị thẩm mỹ…”

Ở Việt Nam, đây là ý kiến thường gặp hơn cả. Đại đa số nhà phê bình hay nhân danh truyền thống và độc giả, để phê phán hậu hiện đại. Vậy xin hỏi, truyền thống là truyền thống gì? Độc giả là ai?

“Tại sao các thế hệ thơ không thể chấp nhận nhau, dù họ đều là trí thức hàng đầu ở thời đại họ? Nhà thơ tài năng nữa! Cụ Huỳnh Thúc Kháng đòi nọc Lưu Trọng Lư ra đánh roi. Trong lúc Xuân Diệu cho thơ Nguyễn Đình Thi lủng cà lủng củng, thì Tố Hữu chẳng chút ngần ngại khi thò tay sửa nát bét tập thơ thi sĩ tài hoa này. Cũng chớ quên vụ nhà thơ Trần Mạnh Hảo kêu đích danh thơ Nguyễn Quang Thiều là loại “thơ giả cầy, thơ dịch” mà dịch rất tồi! Đinh Linh là nhà thơ rất tài năng, vậy mà không ít nhà thơ ở Việt Nam cho thơ của anh không phải là thơ!” (Inrasara, “Góp nhặt sỏi đá, hay Đối thoại về sai lầm lặp đi lặp lại về nhìn nhận thơ hôm nay”, Song thoại với cái mới, 2008).

Tại sao?

Trước năm 1934, ở ta chưa hề có truyền thống như Thơ Mới. Vậy độc giả Thơ Mới ở đâu? Trước thập kỉ 60, Việt Nam cũng chưa từng có cái gì giống thơ tự do không vần! Vậy truyền thống là cái gì? Còn thẩm mĩ là thẩm mĩ nào? Nữa: thế nào là đẹp?

Làm như chúng ta đã biết “đẹp” là gì rồi!

Làm như chúng ta đã nắm chắc “chân lí” là gì rồi!

Triệu Lam Châu viết: “Nếu làm thơ theo một cảm thức “hỗn độn, vô nghĩa, mọi bảng giá trị đều đổ vỡ, mọi định hướng ý nghĩa đều vô ích” và không còn niềm tin nào nữa kể cả chân lý… – thì sẽ sinh ra loại thơ gì nhỉ? Đó là thơ hậu hiện đại”.

Ở đây, dài dòng e sẽ dẫn ta đi lạc đề. Tôi chỉ đưa hai ví dụ: Heidegger đã dành nguyên tác phẩm để định nghĩa lại chân lí (On the Essence of Truth) mà sau bình minh của tư tưởng Hi Lạp, truyền thống triết học Tây phương đã hiểu sai, một định nghĩa làm chuyển đổi cả dòng chảy của triết học Tây phương. Hay Nietzsche dành cả đời để làm mỗi chuyện: lật đổ mọi bảng giá trị cũ. Và ông đã làm nên cuộc thay đổi lớn. Ai dám cho “lật đổ mọi bảng giá trị” kia là hư vô chủ nghĩa? Nói theo ngôn từ Kinh Kim Cang: “Phật thuyết lật đổ mọi bảng giá trị tức phi lật đổ mọi bảng giá trị thị danh lật đổ mọi bảng giá trị”.

2. Về thủ pháp

Triệu Lam Châu viết: “Đến đây ta mới rõ lối viết của nhà thơ hậu hiện đại là… thể hiện trong sự rối loạn ngôn từ của kẻ mang chứng bệnh thần kinh phân liệt. Hay nói cách khác là họ làm thơ như là trong lúc điên loạn vậy.”

Các cách thể hiện và thủ pháp chủ yếu của hậu hiện đại: siêu hư cấu sử kí, cấu trúc phân mảnh, rối loạn ngôn từ, ngôn ngữ đia phương, tiếng lóng và giọng ngọng, phá vỡ trật tự thời gian, phá vỡ khu biệt thể loại, phi tâm hóa ngôn từ và hình ảnh, nhại văn, vân vân… mỗi tác giả hậu hiện đại khai thác thế mạnh khác nhau. Không thể nhấn vào một thủ pháp nào đó để phê phán hậu hiện đại. Thủ pháp kết hợp nhuần nhuyễn với cảm thức hậu hiện đại để làm nên bài thơ hậu hiện đại đúng nghĩa. Ở ta, không ít nhà thơ vận dụng vài thủ pháp hậu hiện đại, nhưng do thiếu cảm thức kia, nên thành ra thứ thơ nạc mỡ dở cơm dở cháo. Ngoài ra chúng còn tùy thuộc vào tài năng người viết nữa. Không ít nhà phê bình Việt Nam trang bị thứ tâm lí vừa kì lạ vừa sai lầm là, cứ chọn ra những bài “thơ hậu hiện đại” dở, không đạt tiêu chuẩn hậu hiện đại để chê nghệ thuật hậu hiện đại.

Bài thơ “Đâm ja” của Bùi Chát:

Tôi lém lước bọt nên tường

tôi yêu những người đàn bà đang nà chuột jưới cống

tôi thấy em mặc cuần nót mười ngàn ba cái mua ở vỉa hè

xách không nàm tôi tốt hơn mỗi khi chủ nhật

tôi nhìn tôi bay chên chời

tôi hành hạ tôi ba bữa

tôi đâm ja

tôi cêu đòi chữ ngĩa…

Đây là bài thơ mang tính nhân văn cao cả hiếm có mà tôi đọc được, hơn mươi năm qua. Nó thể hiện sự cảm thông sâu xa của thi sĩ với thân phận người nữ dưới đáy xã hội, người nữ thất học – có lẽ, nói giọng “ngọng”, có thể làm nghề thấp kém và đang mắc kẹt ở xó xỉnh nào đó của thế giới văn minh này. Nhà thơ đã “cêu đòi chữ ngĩa” cho thân phận đó.

Bài thơ gây cho tôi xúc động mạnh. Tôi cho đây là bài thơ cực kì độc đáo, cảm động và mãnh liệt. Ở đây không tìm đâu ra một câu, một ý nào thể hiện sự khinh miệt con người. Thế mà Triệu Lam Châu đã hạ bút cho đó là loại thơ phản văn hoá. Ai có thể hiểu nổi không?! “Vốn quen tiếp nhận thơ theo kiểu truyền thống, chúng ta không thể chấp nhận những loại thơ phản văn hoá như trên”.

Ở đây, anh lại nhân danh truyền thống, mà phán xét!

3. Về ngôn từ

Hậu hiện đại Việt Nam dùng nhiều ngôn từ thông tục, thông tục lắm khi thành thô tục. Xin nhắc lại: đó chỉ là một trong những cách phản ứng. Phản ứng ấy không chỉ là mục tiêu tự nhân, mà là vừa cho chính nó vừa cho cái khác. Không phân biệt được “khác” này, ta dễ đồng hóa thơ hậu hiện đại với chủ trương làm thơ nhếch nhác, dơ dáy, tục tằn…

Chối bỏ lề thói tiệm tiến rù rì nhích từng bước sang bờ bên kia – quá diệu vợi, mơ hồ và siêu hình, hậu hiện đại sử dụng mọi chất liệu cận tay có sẵn trong sinh hoạt thường nhật, như là một lối đi tắt, thẳng để đạt đến thực tại, siêu vượt nỗi vong thân. Hậu hiện đại trong văn học – nghệ thuật có thể ví như Thiền trong truyền thống Phật giáo. Thiền sư vận dụng mọi phương tiện thiện xảo: la hét, chẹt cửa, đánh bằng hèo, nói tục nói phét, kêu yếu chỉ của đạo Phật là cọc phân khô (càn thỉ quyết – Vân Môn)… với mục đích tối hậu là đưa kẻ mê sang bến giác, ngay tức thì. Nhưng muốn chạm mặt cái sát-na ngay tức thì ấy, người tu tập cần kinh qua mấy tầng khổ luyện. Hậu hiện đại cho phép nghệ sĩ sáng tạo sử dụng mọi chất liệu, xáo trộn mọi phong cách, lắp ghép mọi vật làm sẵn. Vân vân… Thế nhưng nếu sản phẩm của bạn không đạt mục tiêu cuối cùng là hiệu quả nghệ thuật, chúng chỉ là trò chơi vô tăm tích của hư vô chủ nghĩa, không hơn” (Inrasara, “Khủng hoảng như là tín hiệu tốt lành”, Tham luận tại Hội thảo Mĩ thuật Việt Nam 20 năm đổi mới – Hà Nội, 5-2007).

Bài “Ngọn cỏ” của Nguyễn Thị Hoàng Bắc là ví dụ khác.

tiếng nước đái

                           nhỏ giọt

trong bồn cầu tí tách

thứ nước ấm sóng sánh vàng

                                       hổ phách

trong người tôi tuôn ra

phải rồi

tôi là đàn bà

hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ

bây giờ

được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ

tương lai không chừng tôi sẽ

to con mập phệ

tí tách như mưa

ngọn cỏ gió đùa

 

“Đàn bà đái không qua ngọn cỏ”, là tục ngữ, là “truyền thống” Việt miệt thị phụ nữ. Ông bà ta dùng chữ “đái”, không tránh né, để hình tượng về sự thấp kém của người nữ. Người nữ hiện đại phản ứng lại: Ừ, thế thì quý ngài hãy xem chúng tôi “đái” đây.

“Thế giới hôm nay cung cấp cho nữ giới bao nhiêu là tấm gương chói lòa, với đủ đầy phương tiện hiện đại [“bồn cầu” là một trong những]. Người nữ ý thức sâu thẳm và mãnh liệt rằng mình là một nửa nhân loại. Chính họ đã và đang góp phần tạo nên lịch sử thế giới. Chứ không bị đẩy ra bên mép rìa xã hội hay đứng ngoài lề văn học như đã từng nữa. Tại sao họ lại từ bỏ cơ hội ngon ăn kia chứ?…

Qua tinh thần bài thơ trên, “ngọn cỏ” lâu nay bị cầm tù đã được phóng thích. Thi sĩ trả nó về với gió mây giữa bao la thiên nhiên thơ mộng. Hãy để cho ngọn cỏ tự do đùa với gió mà không buộc nó phải chịu phận so đo trong tinh thần phân biệt đối xử với sự đái. Cả sự đái của đàn bà cũng được cởi trói, qua đó thân phận tòng thuộc của chị em được giải phóng.” (Inrasara, “Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố ‘nữ’”, Song thoại với cái mới, 2008).

Đọc bài này, Triệu Lam Châu lần nữa – nhân danh truyền thống, cho là “nhà thơ hậu hiện đại Việt Nam lại công khai và trắng trợn nữa – thể hiện sự “vô văn hoá” (xét theo quan niệm truyền thống xưa nay).” Tôi thì ngược lại, “xét theo quan niệm nhân văn mang tính phổ quát” hiện đại, chính việc so sánh “sự đái” với “đàn bà” cùng cụm từ “không qua ngọn cỏ” mới thậm… vô văn hóa.

4. Về trách nhiệm công dân

Triệu Lam Châu viết: “Trước tiên hãy làm một con người tốt và một công dân tốt đã, rồi mới làm thơ”.

Tôi không hiểu ý Triệu Lam Châu đề cập đến “con người tốt” là gì. Chỉ biết nghệ sĩ hậu hiện đại Việt Nam (hơn con số trăm) chưa ai mang tiếng xấu như chạy chọt, tham ô, hối lộ, bợ trên đè dưới hay phải bị tù hình sự cả. Còn “công dân tốt” ư? Thế nào là tốt? Tốt với ai? Riêng tôi thấy, họ là những công dân đầy tinh thần trách nhiệm.

Các nghệ sĩ hậu hiện đại Việt Nam “làm thơ và nhập cuộc vào dòng chảy thời cuộc của thời đại. Lạ, trước sự kiện trọng đại của đất nước là sự kiện Trường Sa – Hoàng Sa và bao nhiêu thời sự nóng khác, hầu hết nhà thơ hậu hiện đại đều có mặt và phản ứng nhanh nhạy. Châm ngôn “Suy tư toàn cục, hành động địa phương” là tính thực tiễn của hậu hiện đại. Nhà thơ hậu hiện đại Việt đã đáp ứng trọn vẹn tinh thần nhập cuộc chịu chơi đó” (Inrasara, “Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại”, Tienve.org, 2009).

Sự kiện Hoàng Sa – Trường Sa cuối năm 2007, đại đa số nhà thơ hậu hiện đại Việt Nam nhập cuộc qua các tác phẩm, các phát ngôn [và cả hành động] của mình; trong khi đó các nhà thơ truyền thống và chính thống đắp mền. Mãi đến sự kiện Hoàng Sa – Trường Sa kì hai năm 2011, – và chỉ khi được phép – các nhà này mới ồ ạt làm thơ yêu nước. Thế nhưng, ở đây họ chỉ ngó thấy bóng giặc từ xa mà hoàn toàn mù màu về hiện thực gần, với các cuộc biểu tình, các vụ đàn áp và bắt bớ lộ thiên mỗi cuối tuần tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội.

Xin hỏi, trong trường hợp này, loại nhà thơ nào nặng trách nhiệm công dân hơn?

 

Sài Gòn, 4-9-2012

 

____________

 

(*) Biết thêm:

Inrasara: Phản hồi ngắn về trao đổi của nhà thơ Triệu Lam Châu

1. Vài nhầm lẫn của bài viết:

Tất cả các vị giáo sư tiến sĩ, một số nhà thơ chuộng cách tân hiện nay và đặc biệt là hai cơ quan chuyên về văn học lớn nhất của Việt Nam là Hội nhà văn Việt Nam và Viện Văn học – đều nhất loạt cổ vũ cho trào lưu cách tân thơ theo cảm thức hậu hiện đại.

– “tất cả”, “nhất loạt cổ vũ” là nhận định sai. Chưa có nhiều giáo sư, tiến sĩ ủng hộ hậu hiện đại. Nhất là các vị nằm trong dòng chính lưu.

 

Điều này thể hiện rõ bằng việc tổ chức các hội thảo thơ rất hoành tráng: Hội thảo thơ Đồng Đức Bốn và Mai Văn Phấn – Hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều – Hội thảo Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử. Điều đó còn thể hiện rất rõ trong việc trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2012 cho các tác giả Mai Văn Phấn, Đinh Thị Như Thuý, Đỗ Doãn Phương và Từ Quốc Hoài…

– Suy luận như trên càng sai. Các tác giả này không liên quan đến hậu hiện đại. Mai Văn Phấn, cũng rất ít. Tôi đã phân tích và chỉ ra sự nhầm lẫn của luận điểm này.


Chính vì lẽ đó nó dễ gây ảo tưởng rằng trào lưu này là đỉnh cao của mọi đỉnh cao về phương thức sáng tạo nghệ thuật, nên nó dễ lôi kéo nhiều người đi vào quỹ đạo của nó.

– Hậu hiện đại rất “kị” cái gọi là đỉnh cao như ở Việt Nam quan niệm. Nó càng không ảo tưởng về “đỉnh cao” của nó. “Giải trung tâm” là tư tưởng và hành động chủ đạo của hậu hiện đại.

 

… hình thức thơ hậu hiện đại là một loại thơ rất khó hiểu. Và một số người quan niệm làm thơ không phải để hiểu !?

– Đây là ngộ nhận thường gặp nhất trên báo chí mấy năm qua. Chủ nghĩa hiện đại mới “tôn vinh” cái khó hiểu. Và thực tế thơ hiện đại cực kì khó hiểu, chẳng những ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Hậu hiện đại chống lại xu hướng làm cho thơ khó hiểu kia. Các phát biểu đại loại “thơ không phải để hiểu” hoàn toàn xa lạ với hậu hiện đại.

 

Thơ hậu hiện đại Việt Nam đã chối bỏ thơ truyền thống một cách triệt để!

– Thơ hiện đại mới chối bỏ truyền thống, còn hậu hiện đại là chấp nhận tất cả. Không chấp nhận truyền thống mới phi-hậu hiện đại.

 

Tác giả viết: “Trào lưu thơ hậu hiện đại của phương Tây cũng chỉ bùng phát hơn ba chục năm nay. Do đó nó rất mới, mới so với thế giới đã đành, mà đối với Việt Nam ta , thì nó lại càng vô cùng mới mẻ”, nhưng chính tác giả lại đồng ý với “phản hồi” của bạn đọc Hoàng Gia Khanh: “… cái món hậu hiện đại bây giờ đã lạc mốt, lỗi thời…”

Có mâu thuẫn không?

 

2. Quá nhiều người sáng tác, nhà phê bình ở Việt Nam không hiểu hoặc hiểu sai hậu hiện đại, lẫn lộn hiện đại với hậu hiện đại. Tôi đã không ít lần chỉ ra hiện tượng đó. Trên đây chỉ là mấy phản ứng về bài viết của Triệu Lam Châu. Còn rất nhiều nhầm lẫn tệ hại khác về hậu hiện đại tôi có đề cập rải rác trong khoảng 20 tiểu luận và 30 bài phê bình về tác giả hậu hiện đại của tôi đăng các nơi, xin miễn nhắc. Chỉ lưu ý độc giả là:

– Quan điểm thẩm mĩ luôn chuyển động qua quá trình lịch sử.

– Muốn thưởng thức tác phẩm nghệ thuật thuộc hệ mĩ học nào đó, điều kiện tiên quyết là cần nắm rất vững tư tưởng hệ mĩ học đó.

– Hậu hiện đại là trào lưu văn hóa đang diễn biến trên cấp độ toàn cầu. Nó đang chuyển động. Nhận định tác phẩm hậu hiện đại cần có cái nhìn toàn cục, không thể tách ra một, hai thủ pháp hậu hiện đại để cho rằng hậu hiện đại đã đi theo lối nào đó

– Không phải mọi bài thơ hậu hiện đại đều mới và hay. Thời Thơ Mới, Hoài Thanh đã phải đọc cả vạn bài “thơ mới” để chọn ra hơn trăm bài “hay”. Nghĩa là ông đã loại bỏ 98,6 bài [thơ giông giống thơ mới, thơ mới không hay, chưa đạt] để lấy 1 bài thơ mới hay! Thơ hậu hiện đại Việt hôm nay cũng phải chấp nhận lối hành xử khắc nghiệt đó của thân phận một tác phẩm nghệ thuật.

– Phong trào hậu hiện đại đòi hỏi nhà phê bình nhập cuộc hết mình vào nó [như Hoài Thanh làm với Thơ Mới], chịu chơi với nó, lên voi xuống chó cùng nó… Chỉ như thế thôi, các nhà này mới có thể khám phá được cái hay tiềm ẩn của nghệ thuật hậu hiện đại. Chứ không phải đứng ngoài thỉnh thoảng ghé mắt vào nó, rồi đưa lời khen chê, đầy cảm tính và hơi… tùy tiên.

 

Ý kiến của Triệu Lam Châu về nội dung phản hồi của Inrasara

Tôi nhất trí với nội dung phản hồi của nhà thơ Inrasara đối với bài viết của tôi, khi bàn về lý thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhờ vậy, mà tôi và nhiều bạn đọc hiểu đúng hơn về cảm thức hậu hiện đại – một trào lưu văn học xuất phát từ phương Tây hiện nay.

Còn những vấn đề khác, có phần quan trọng hơn cả, trong bài viết của tôi “Phải chăng thơ hậu hiện đại Việt Nam chấp nhận sự vô văn hoá” – thì không thấy nhà thơ Inrasara phát biểu gì. Vậy là tôi, Triệu Lam Châu cảm thấy hài lòng. Xin chân thành chúc nhà thơ cùng bạn đọc sức khoẻ và thắng lợi.

Tuy Hoà, chiều 3 tháng 9 năm 2012

 

 

 

 

 

 

9 thoughts on “Inrasara: Vài giải minh qua ngộ nhận về hậu hiện đại Việt Nam

  1. Pingback: Tin thứ Tư, 05-09-2012 « BA SÀM

  2. “Triệu Lam Châu viết: “Trước tiên hãy làm một con người tốt và một công dân tốt đã, rồi mới làm thơ”.
    Tôi không hiểu ý Triệu Lam Châu đề cập đến “con người tốt” là gì. Chỉ biết nghệ sĩ hậu hiện đại Việt Nam (hơn con số trăm) chưa ai mang tiếng xấu như chạy chọt, tham ô, hối lộ, bợ trên đè dưới hay phải bị tù hình sự cả. Còn “công dân tốt” ư? Thế nào là tốt? Tốt với ai? Riêng tôi thấy, họ là những công dân đầy tinh thần trách nhiệm.

    Sự kiện Hoàng Sa – Trường Sa cuối năm 2007, đại đa số nhà thơ hậu hiện đại Việt Nam nhập cuộc qua các tác phẩm, các phát ngôn [và cả hành động] của mình; trong khi đó các nhà thơ truyền thống và chính thống đắp mền. Mãi đến sự kiện Hoàng Sa – Trường Sa kì hai năm 2011, – và chỉ khi được phép – các nhà này mới ồ ạt làm thơ yêu nước. Thế nhưng, ở đây họ chỉ ngó thấy bóng giặc từ xa mà hoàn toàn mù màu về hiện thực gần, với các cuộc biểu tình, các vụ đàn áp và bắt bớ lộ thiên mỗi cuối tuần tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội.
    Xin hỏi, trong trường hợp này, loại nhà thơ nào nặng trách nhiệm công dân hơn?”

    Đoạn trên tưởng nhà thơ Inrasara phản biện đúng, ai dè là sai.
    Ý Triệu Lam Châu: công dân nước CÔNG DÂN NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM tốt.

  3. Pingback: Tin thứ Tư, 05-09-2012 « Dahanhkhach's Blog

  4. Pingback: CẬP NHẬT Tin thứ Tư, 05-09-2012 « Dahanhkhach's Blog

  5. Nhà thơ Inrasara quả là có con mắt xanh… Đọc thơ chàng Bùi Chát thấy ớn, đọc thơ chị Hoàng Bắc thì thấy giận… Nay nghe anh Inrasara giảng bài, mới thấy hay.
    Cần nhà phê bình có con mắt xanh là thế. He he…

  6. Cái vụ thơ Hâu hiện đại, không hiểu sao dạo này thiên hạ xúm vào…chê bai Sara nhiều thế nhỉ?

    Thực ra mình nghĩ thơ ca khó mà giảng giải cho thấu đáo bởi nó thuộc về cảm nhận, với người đã không thể cảm nhận mà cứ nhất định thơ Hậu hiện đại là…vô văn hóa thì khó mà thay đổi ý nghĩ của anh ta.

    Nhưng qua những cuộc này, hiểu và yêu thêm tâm và tầm của Sara.

  7. Không sành văn nghệ văn gừng… nhưng tui đọc thấy ý của nhà thơ Tày này hơi bị ghê:

    từ năm 2004 tới giờ, khi đọc những bài thơ mang cảm thức hậu hiện đại từ nhiều nguồn, dẫu trong lòng tôi (một bạn đọc chân chính) bùng phát rất nhiều nỗi bức xúc – nhưng vẫn cố kìm nén và chờ đợi… chờ đợi mãi, cho đến tận hôm nay (8-2012)” – mới “mạnh dạn” trao đổi về hậu hiện đại, với tiêu đề khá sốc: “Phải chăng thơ hậu hiện đại Việt Nam chấp nhận sự vô văn hóa?”.
    – tự xưng mình là “bạn đọc chân chính”… là ghê thứ nhứt.
    – tự tin vầy, mà chờ cho đến 2 đọc giả chê hậu hiện đại nhà thơ này mới “mạnh dạn”… thì hơi bị kỳ.
    – còn nói thơ gì đó vô văn hóa thì tui xin chịu… ghê hết chịu nổi…

    Cei Sara còn bình tĩnh giải đáp chớ tui chạy có cờ…

  8. Pingback: Anhbasam Điểm Tin thứ Tư, 05-09-2012 | bahaidao2

  9. Bài này ông Inrasara viết không hay, có lẽ do người mà ông đối thoại không đủ tầm. Chỉ có 2 điểm đáng đọc là điểm ông giải thích về 2 bài thơ Bùi Chát và Hoàng Bắc. Lối hiểu thơ rất độc đáo của nhà thơ kiêm phê bình gia này.

Leave a Reply to Vô Danh Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *