NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CHĂM
Đây là tiểu luận được chỉnh sửa, triển khai từ bài “Ngõ vào plây Chăm” đăng trên tập san Văn nghệ Dân tộc (Hội Nhà văn Việt Nam), ngày 14.10.1995. Hơn 9 năm qua đi, tác giả có bài “Thực trạng xã hội Chăm, một số giải pháp chính” (Tagalau 4, 2004) tạo dư luận nhiều chiều. Mặc dù việc phơi bày khuyết tật-nhược điểm của dân tộc vẫn là cần thiết và cấp thiết, nhất là với các nước đang phát triển – nói như nhà văn hóa Hữu Ngọc: “Quan trọng nhất là phải biết nhìn ra nhược điểm của chính mình” – nhưng tác giả Nguyễn Văn Tỷ vẫn muốn nêu lại cái tốt của dân tộc và văn hóa dân tộc, để lần nữa khẳng định logic trong tư duy ông: luôn suy tư đầy trách nhiệm về và cho cộng đồng.
Tagalau
*
Dân tộc Chăm là một dân tộc đã từng sinh sống lâu đời trên phần đất miền Trung Việt Nam, từ Đèo Ngang (Quảng Bình) đến Bình Thuận. Người Chăm có một nền văn hóa rực rỡ và phong phú. Họ có những nếp sống gia đình, lễ nghi tôn giáo khá độc đáo. Ở Ninh Thuận và Bình Thuận có những plây Chăm sống cạnh thôn ấp người Kinh, có khi san sát nhau, rất đoàn kết, chan hòa nhưng lại không bao giờ trộn lẫn nhau về mặt thổ cư cũng như bản sắc văn hóa: Họ giữ nề nếp riêng, lối sống riêng của cộng đồng mình do những lễ nghi tôn giáo và phong tục tập quán qui định. Chính những nề nếp riêng đó làm cho cuộc sống của cộng đồng người Chăm lúc nào cũng “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Ngày nay, có lẽ mọi dân tộc trên thế giới đều có một suy nghĩ chung là việc đáng đau buồn nhất cho một dân tộc là sự mất gốc, nghĩa là dân tộc đó đã hòa nhập với cuộc sống của dân tộc bản địa từ thế hệ này đến thế hệ khác rồi dần dần “hòa trộn” hoàn toàn, tự biến mình thành lai căng đến mức độ không còn xác định được nguồn gốc của mình là đâu nữa. Đó là niềm ưu tư của các dân tộc đang định cư giữa lòng dân tộc đa số khác của các nước mà hôm nay phần đông các con cái của họ không nói được tiếng mẹ đẻ của mình thì còn đâu là niềm hy vọng “bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc”? Đấy cũng là bài toán khó mà dân tộc Chăm đã từng suy nghĩ trong quá khứ và phải tiếp tục suy nghĩ trong hiện tại khi cộng đồng Chăm di cư đến một số nước khác đã hòa trộn một cách nhuần nhuyễn với các dân tộc bản địa ở Đông Nam Á như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippin, đến độ không còn nhận biết được nguồn gốc của mình!
Trên thế giới hôm nay, khi mọi sinh hoạt của con người được hiện đại hóa, công nghiệp hóa thì cuộc sống cũng phải hòa nhập với cộng đồng các dân tộc xung quanh mình cũng như với cả thế giới. Như thế, xu hướng chuyển từ hòa nhập đến hòa trộn và hòa tan là một sự kiện hết sức tự nhiên. Đó cũng là vấn đề mà Nhà Nước Việt Nam hôm nay đang đặt ra trước sự mở cửa để hòa nhập với nền kinh tế thị trường thế giới và làm bạn với mọi người. Đúng là vấn đề không đơn giản. Dân tộc Việt Nam hôm nay, muốn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc thì rõ ràng phải phát huy những nét đẹp cổ truyền của dân tộc mình để làm vũ khí chống lại khuynh hướng hòa tan trong sự xâm nhập ồ ạt của những văn hóa đa dạng, tạp phức và lai căng của các dân tộc khác trên thế giới. Tôi thấy vấn đề này cũng đã được các nước phát triển trong khu vực đặt ra khá gay gắt, đặc biệt là Thái Lan, đến mức độ khách du lịch khó tìm ra được một câu quảng cáo bằng tiếng Anh ở các cửa tiệm và đường phố.
Trong bối cảnh của sự hòa nhập rộng rãi hôm nay, ta thử xem xét những nét đặc trưng nào của bản sắc văn hóa dân tộc mình đáng được bảo tồn.
A. Xã hội Chăm chịu sự chi phối rộng rãi của tôn giáo-tín ngưỡng
Người Chăm có hai tôn giáo chính rất độc đáo là Bàlamôn giáo và Hồi giáo. Tôi nói rất độc đáo vì trên thế giới này không nơi đâu có hình thức tôn giáo như cộng đồng người Chăm Việt Nam: Bàlamôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, du nhập vào Champa vào cuối thế kỷ thứ IV. Đặc điểm của Bàlamôn giáo là thờ nhiều thần, nhưng ở đây Bàlamôn của dân tộc Chăm lại thờ cả thánh Allah. Hồi giáo có nguồn gốc từ Ả Rập, truyền qua Mã Lai, du nhập vào Champa vào thế kỷ thứ X. Đặc điểm của hồi giáo thế giới là độc thần, chỉ thờ độc nhất là đấng Allah, nhưng Hồi giáo của dân tộc Chăm (được gọi là Bàni) lại thờ luôn các thần của Bàlamôn giáo. Sở dĩ có hiện tượng lạ lùng trên là do quá trình lịch sử Champa phức tạp, hai tôn giáo trên đã chống chọi nhau gây chia rẽ trầm trọng, nên các vua chúa Champa thời đó phải đưa ra thuyết dung hòa tôn giáo kiểu “tuy hai mà một, tuy một mà hai”.
– Mỗi một tôn giáo có cái kiêng kỵ khác nhau: Người Chăm Hồi giáo (tức Bàni) kiêng thịt heo và thịt dông; vì vậy khi vào plây Chăm Bàni, khách không nên mang theo thịt heo hay thịt dông để tỏ “phép lịch sự tối thiểu”. Ngược lại khi vào plây Chăm Bàlamôn, khách kiêng mang theo thịt bò.
– Từ những lễ nghi tôn giáo Chăm, khi vào thánh đường Bàni hay vào những tháp Chăm, khách nên tìm cái chăn trắng để mang cho “phải phép”. Ngoài ra trong thánh đường, khách chỉ được ngồi dự lễ trong vòng hai hàng cột ngoài chứ không được ngồi cao hơn. Khi chụp ảnh quay phim lại càng phải dè dặt hơn, phải do các thầy hay các vị có trách nhiệm hướng dẫn.
– Lúc sống, khi chết, người Chăm bị ràng buộc chặt chẽ vào lễ nghi tôn giáo và phong tục tập quán của mình. Đặc biệt người Chăm Bàni có những lễ nghi rất cụ thể để tuân theo từ khi lọt lòng đến lúc mất; con trai khi lên 14-15 tuổi, phải qua lễ “Katat” (lễ nhập đạo), đến trưởng thành, cưới gả thì phải qua lễ “likhah” (còn Bàlamôn giáo thì phải qua lễ “Bbơng pađih”). Con trai có qua lễ Katat, sau này mới tiến hành đám Likhah được; và có đám Likhah rồi, khi cha mẹ mất con trai mới được dự lễ “tẩy thể” (tắm gội thể xác trước khi chôn cất) và lễ “âuwa” (lễ trả hiếu cho cha mẹ). Ngay cả bản thân mình, nếu không được qua các lễ nghi tôn giáo “Katat” và “likhah” thì lễ chôn cất sẽ được thực hiện rất đơn giản chứ không theo lễ nghi bình thường. Đó là điều bất hạnh lớn đối với người Chăm Bàni.
– Do lễ nghi tôn giáo ràng buộc như trên, người Chăm cảm thấy rất khó khăn khi phải lấy người ngoại đạo, hay phải sống xa quê hương vì ngại thiếu thủ tục và lễ nghi tôn giáo nghiêm túc lúc lìa đời. Theo trào lưu đổi mới hôm nay, sự giao lưu giữa người Chăm trong cộng đồng cũng như những người không cùng cộng đồng dân tộc được đặt ra khá gay gắt. Chính vì vậy mà người Chăm phải tìm cách giải quyết vấn đề hôn nhân không cùng tôn giáo bằng cách làm thủ tục nhập đạo cho người bạn đời của mình để không còn gây khó khăn trở ngại (thủ tục này trước đây khó thể hiện vì các chức sắc không chấp nhận).
– Ngoài lễ nghi tôn giáo ra, sinh hoạt thông thường cũng có những đặc trưng của nó mà người khách có quan hệ làm ăn với người Chăm cũng cần biết như: Ngày Chủ nhật và ngày thứ Năm người Chăm kiêng xuất của (như xuất lúa, hay xuất những vật quí trong gia đình. Hôm nay, tập quán này đã được cải tiến nhiều, nhất là ở các giới trẻ).
– Trên đây tôi chỉ đề cập đến người Chăm theo tôn giáo Bàlamôn và Bàni, còn một bộ phận thiểu số người Chăm theo Islam thì vấn đề sinh hoạt hàng ngày càng bị tôn giáo chi phối nặng nề hơn nữa vì phải tuân theo đúng lễ nghi và tập quán của Islam quốc tế.
– Chính các lễ nghi tôn giáo như nói trên đã chi phối sinh hoạt của dân tộc Chăm, định hình cho những nếp suy nghĩ và hoạt động của cộng đồng, lâu ngày hình thành những tập quán ăn sâu vào lòng dân tộc và trở thành những nét đặc trưng của bản sắc văn hóa dân tộc Chăm.
B. Tinh thần hiếu khách của người Chăm:
Trong các dịp lễ hội hay ngày thường, những khách thập phương đến với plây Chăm đều cảm thấy có sự tiếp đón và đối xử khá nồng hậu. Tinh thần hiếu khách là một trong những đặc trưng của sinh hoạt xã hội người Chăm.
Trong cuộc sống hàng ngày, người Chăm hay cúng bái (cúng tổ tiên, cúng thần linh); sự cúng bái đó hàm ý rộng rãi là “pakhat” nghĩa là cúng dường hay còn có ý nghĩa từ thiện. Vì thế, thỉnh thoảng gia đình Chăm (Bàni và Bàlamôn) lại mời thầy Chan (chức sắc Bàni) đến cúng “pakhat” thật sự mỗi khi gặp dịp làm ăn may mắn, được lộc, hay thuận lợi. Người Chăm hiểu rằng có “pakhat” như vậy thần thánh mới phù hộ cho mình làm ăn phát đạt và tai qua nạn khỏi.
Sự hiếu khách của người Chăm cũng mang ý nghĩa tôn giáo y hệt như nội dung “pakhat” nói trên: Năm nào gia đình có nhiều khách thì năm đó sẽ có nhìều thuận lợi, phát đạt trong việc làm ăn, người Chăm hiểu như thế. Chính vì vậy mà mỗi khi được đãi đằng, không phải khách mà là chủ nhà có nhã ý “cám ơn”. Tôi đã từng có dịp chứng kiến việc “lạ lùng”này: Sau bữa ăn thịnh soạn, khi khách xin cáo từ, hai vợ chồng chủ nhà người Chăm đứng lên, vòng tay trước ngực, nói một cách trịnh trọng: “Vợ chồng chúng tôi xin cảm ơn quí anh đã đến dùng bữa cơm với gia đình chúng tôi”. Và tôi tin chắc rằng, khi khách ra về rồi, hai vợ chồng này lấy làm thanh thản và sung sướng vì đã làm một việc tốt và sẽ được “quả phúc” đúng như câu tục ngữ Chăm:
“Twai tamư paga yuw ba mưda tamư sang”
Khách bước qua rào như mang sự giàu có vô nhà
Ngoài ra sự hiếu khách của người Chăm còn mang ý nghĩa giao tế và thể diện. Thành ngữ “lithei paywa” (cơm gởi) của người Chăm trong trường hợp này hàm ý “có qua có lại”, đầy tính lịch thiệp và nhân văn. Họ còn hiểu rộng hơn vấn đề xử thế này như một ý nghĩa đạo đức: “caik phwơr ka anưk” (để đức cho con), nghĩa là hôm nay ta đối xử tốt với khách thì ngày mai, ta hay con ta sẽ được đối xử tương tự: sự giao tiếp của người Chăm không những mang nặng tình nghĩa và đạo đức, mà còn chứa đựng cả một triết lý nhân – quả nữa. Mặt khác, vấn đề thể diện cũng dự phần khá đặc trưng trong sự hiếu khách của người Chăm: gia đình nào có nhiều khách, và đặc biệt là khách quý, thì gia đình đó sẽ được những người xung quanh quí trọng và kính nể. Vấn đề hiếu khách cũng là một nét đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc Chăm.
C. Những nếp sống khá đặc biệt của người Chăm
Sinh hoạt của xã hội Chăm có những đặc điểm đáng lưu ý như: Sự ôn hòa, sự tôn trọng lời hứa, lòng trung thành, sự trung thực, tính tôn ti trật tự, tính hiếu học. Dĩ nhiên, mỗi dân tộc đều có nết sống đặc trưng của mình, phù hợp với bản sắc văn hóa riêng biệt. Dân tộc Chăm cũng thế, những nét văn hóa đặc trưng của họ làm cho họ có một sắc thái riêng không giống bất cứ dân tộc nào khác; đó là những nét đẹp đáng được bảo tồn và phát huy.
– Tính ôn hòa và không thù dai
Sự sinh hoạt miền nông thôn cũng như miền núi không mang tính cách cạnh tranh như ở thị thành. Chính vì vậy mà ở vùng dân tộc Chăm, chúng ta nhận thấy cuộc sống khá thanh thản, không sống xô bồ, nhếch nhác. Có lẽ do chịu ảnh hưởng phần nào nếp sống êm xuôi này mà tính cách ôn hòa hình thành được trong lòng cộng đồng người Chăm.
Trong sinh hoạt hàng ngày, chắc chắn phải có những va chạm, xích mích, bất đồng ý kiến, đưa đến việc cãi vã lẫn nhau, nhưng không bao giờ (hoặc rất ít khi) dẫn đến việc đánh đập nhau hay đâm chém nhau như đã từng xảy ra thường xuyên ở các thị thành văn minh. Trong những trường hợp xích mích gay gắt, không thể tự giải quyết được thì hai bên đưa nhau đến chính quyền cơ sở để nhờ giải quyết. Tính khí Chăm không thâm độc, dễ tha thứ, vì thế mà trong xã hội Chăm không có mối thù nào lâu dài hay truyền kiếp! Họ dễ dàng làm lành với nhau, phần nào cũng do mối giao hảo chằng chịt của các hôn nhân. Dĩ nhiên tính ôn hòa của người Chăm khó sánh bì được với tính nết ôn hòa, nhã nhặn của người Mã Lai khi giữa phố xá, xe cộ chằng chịt có một chiếc taxi đâm phải đuôi xe con của mình, người chủ xe con này liền mở cửa xe ra và…giơ tay mỉm cười trước khi đến xem xét sự việc ra sao! Tôi và ông bạn của tôi ngồi ở xe taxi hết sức ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy được hiện tượng này ở các xứ sở nào khác ngoài Malaysia!.
Tuy nhiên, có một câu chuyện “ôn hòa đặc trưng” của người Chăm đã từng xảy ra ở làng Hữu Đức (tỉnh Ninh Thuận) giữa hai chị em với nhau mà người Chăm đã kể lại cho nhau nghe từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vốn là hai chị em này xích mích với nhau xung quanh việc sinh hoạt gia đình có sự bất công khá gay gắt. Người em không chịu nổi cảnh bất công mới đến níu vạt áo người chị đang ngồi dệt ở khung cửi Chăm (có dây chằng sau lưng, ép người vào khung cửi). Người em cứ níu chặt và chỉ nhắc đi nhắc lại duy nhất một câu: “chị phải giải quyết công bằng cho em”. Suốt cả tuần lễ như thế, đến giờ ăn giờ ngủ thì buông nhau ra ăn và ngủ như không có gì xảy ra! Ông chủ tộc họ nghe được việc lạ lùng này lìền cầm cây gậy rượt đánh đuổi cả hai người chạy tán loạn và từ đó hai chị em lại làm lành với nhau. Dĩ nhiên ông chủ tộc họ này cũng chỉ dọa dẫm để cho hai chị em buông nhau ra và chấm dứt việc níu kéo nhau nằm vạ chứ không bao giờ có ý đánh đập. Sau ông ta cũng bỏ ra công sức để dàn xếp, giải hòa.
– Tôn trọng lời hứa
Người Chăm rất dị ứng với sự dối trá, điếm đàng và rất trọng sự ngay thẳng, thật thà. Vì trước đây, xã hội Chăm sống gần như khép kín – giống như xã hội miền núi – nên những thói hư tật xấu của chốn phồn vinh đô thị như: lừa đảo, lật lọng, cướp giật, không chen chân được trong cộng đồng người Chăm.
Mỗi khi hứa một việc gì với nhau, người Chăm rất tôn trọng, kể cả vợ chồng ly dị nhau, chỉ cần mời một người già làm chứng để hai vợ chồng “chẻ đôi chiếc đũa” và trao cho nhau mỗi người một nửa, thế là xong. Vì họ hiểu rất đơn giản là lòng ta đã hứa và đã hứa như vậy thì thần linh cũng đã chứng giám. Rõ là một việc làm đúng theo lương tâm của mình lại được thêm yếu tố thần linh nữa, thì việc hứa đó vững chắc như đinh đóng cột! Vì vậy người Chăm liên hệ làm ăn với nhau hay với dân tộc khác, ít khi phải tốn nhiều giấy tờ: cam kết, hợp đồng, biên bản, mà họ chỉ cần nhắc lại tất cả sự cam kết đó một lần nữa cho rõ ràng là xong.
Có một người bạn dân tộc Kinh thuật lại với tôi đầy kinh ngạc: “Người Chăm thật quả chất phác, họ bán cho tôi một bầy bò cái 20 con, tôi chỉ đưa trước một phần nửa số tiền mà họ bảo tôi: Anh cứ lùa bò về hết đi, rồi tháng sau anh đến trả nốt số tiền còn thiếu như lời hứa”. Chính vì vậy mà tôi đã từng nói với bạn bè người Kinh – và cũng có dịp trao đổi sự nhận xét và là kinh nghiệm thực tiễn của tôi với chính quyền địa phương – rằng: Người Chăm không bao giờ để thiếu thuế ruộng đất của Nhà Nước, vì dù mất mùa hoàn toàn, họ sẵn sàng đem con đi ở đợ để lấy tiền trả thuế”. Trong thực tế, có những người thiếu thuế thì có lý do đặc biệt của nó: hoặc chính quyền địa phương không tích cực đòi (sự kiện này xảy ra thường xuyên) hoặc đương sự không còn gì để bán hay cầm thế!
Tình trạng hiện nay có sự thay đổi nhiều: Trong sự giao tiếp với xã hội bên ngoài, họ gặp phải trăm ngàn trắc trở (lường gạt, dối trá, điếm đàng) nên họ đã rút ra được những kinh nghiệm đau lòng và phải điều chỉnh lại “sự tôn trọng lời hứa” cũng như “sự tin cậy lẫn nhau” đối với những kẻ xấu. Có lúc họ lại “học tập những tật xấu” để trả thù những phường vô lại….
– Sự trung thành
Người Chăm cũng như đa số các dân tộc thiểu số khác, sống rất đơn giản, chất phác, sống với chủ nào thì chỉ biết chủ đó, rất trung thành với người mà mình phục vụ, không sống theo kiểu “lá mặt, lá trái”, điếm đàng, láu cá. Đối với những người Chăm giúp việc trong gia đình, dù là việc lặt vặt trong gia đình hay việc đồng án, chăn nuôi, quản lý nông trại, người chủ có thể đặt tin tưởng hoàn toàn. Chủ sai bảo như thế nào, chủ căn dặn việc gì thì chắc chắn những việc đó sẽ được hoàn thành và bảo vệ đúng theo ý muốn của chủ. Chính vì quá trung thành như thế mà trong chiến tranh đã xảy ra một sự việc khá đau lòng cho binh lính người Chăm: Một ông đại úy quân đội trưởng nọ (thuộc chế độ cũ) ra lệnh cho thuộc hạ người Chăm “tử thủ” để ông ta đi gọi cứu viện. Sự thật là ông ta cố ý bỏ trốn trước sự tiến công ồ ạt năm 1975 của quân giải phóng. Các thuộc hạ tuân theo lệnh của chủ, cứ chống cự, chống cự mãi đến lúc quân cách mạng tràn ngập căn cứ và bắt phải đầu hàng mới chịu buông súng!
– Sự trung thực:
Người Chăm bản chất ngay thẳng, không có tính lắt léo để giành cái tốt cái lợi cho mình và đùn đẩy điều xấu cho người khác. Ngay trong hoàn cảnh éo le là phải đứng trước quan tòa để kiện cáo, họ cũng không nói ra được những lời gian dối hay vu khống cho đối phương để tạo thuận lợi cho mình. Nếu phải làm chứng cho vụ kiện cáo nào, họ rất trung thực với sự kiện đã xảy ra, những gì “tai nghe mắt thấy”, chứ ít khi thêm thắt hay suy diễn. Chính bản chất trung trực này làm cho người Chăm trở thành những đối tượng khó mua chuộc được.
Trong sinh hoạt đời thường, chúng ta cũng rất ít thấy người Chăm tham lam, bòn rút của thiên hạ. Thông thường họ phân biệt khá rành mạch của mình, của người, chứ không “đánh lận con đen”. Trong cơ quan của tôi, có một anh quản lý là người Chăm, anh ta gây sự chú ý cho mọi người ở bản chất rất đàng hoàng, đứng đắn của mình: Những hàng hóa được lĩnh về từ các phiếu phân phối cá nhân, không những anh ta không cắt xén mà còn có sự công bằng tuyệt đối trong phân phối đối với mọi người trong đó có bản thân anh. Có lúc vì cách làm sổ sách của anh chưa tốt, anh ta bị cấp trên góp ý phê bình, anh ta phàn nàn: “Muốn làm việc lắt léo để vụ lợi thì ít nhất phải có đầy đủ năng lực; khả năng của mình chỉ làm tròn nhiệm vụ là đã phải cố gắng tột bực rồi, còn đâu thời gian để suy nghĩ làm những việc bất chính nữa!”. Trước sự ngay thẳng đó ai cũng phì cười và khen ngợi.
– Truyền thống hiếu học
Tính hiếu học là một đức tính rất đáng được trân trọng trong những đức tính tốt của người Chăm. Chính tính hiếu học đã giúp cho người Chăm luôn luôn tiến bộ và cộng đồng dân tộc có sự thăng tiến và phát triển. Tôi thấy cái đáng quí nhất là sự hiếu học này đã bảo tồn được chữ viết của người Chăm từ đời này qua đời khác xuyên suốt chiều dài lịch sử đầy thăng trầm và éo le của dân tộc. Ai cũng phải lấy làm ngạc nhiên khi thấy một người nông dân Chăm luôn luôn tranh thủ những thời gian rảnh rỗi giữa các mùa lúa, mùa bắp để ngâm nga các quyển Ariya, tìm hiểu các Damnưy, hay trau dồi tiếng mẹ đẻ. Ở đầu thế kỷ XX, khi mà máy photocopy chưa có, máy đánh chữ rất hiếm hoi và đắt giá, các ông nông dân này phải mua một quyển Ariya chép tay (do những trí thức viết chữ đẹp sao chép) với giá khó tưởng tượng của chúng ta là nửa xe lúa (bằng 4 tạ hay 1.000.000 đ). Nghĩa là bằng nhiều tháng lao động miệt mài!! Trong những đêm có đám đình trong làng, bà con Chăm thường hay tụ tập nhau để giúp làm bánh trái, chuẩn bị công việc cho ngày mai. Lúc đó, những bà mẹ muốn nghe các lão ông đọc các Ariya tình tứ như: Xah Pakei, Cam – Bini, Bini – Cam, (Nai mai mưng Makah), Um Mưrup, Dewa Mưno v.v… Các bà nải nỉ cho bằng được các ông có giọng truyền cảm đọc Ariya mà mình thích. Chính những cuộc sinh hoạt như thế này đã khắc sâu sự đam mê văn chương trong giới trẻ Chăm tư lúc còn niên thiếu.
Trong xã hội Chăm, hầu hết các gia đình đều phấn đấu để cho các con được cấp sách đến trường. Vì nghèo khó mà phải để cho các con mù chữ là cả một sự nhục nhã. Chính vì vậy mà chúng ta gặp không ít hoàn cảnh đặc biệt không kém ly kỳ và éo le trong cách tính toán sắp xếp cho các con đi đến trường: Có gia đình phải cho mấy đứa con nhỏ đi ở đợ (làm mướn nhiều năm liền và nhận tiền trước) để cho đứa lớn được học lên cao. Khi đứa lớn tốt nghiệp và có công ăn việc làm rồi thì lại giúp cho đứa nhỏ học hệ bổ túc văn hóa. Trong lúc đó, cha mẹ không từ nan bất cứ công việc nặng nhọc nào như: rũ rơm, lượm phân bò, nhổ cỏ mướn, chăn cừu, chăn bò thuê. Vì thế các đứa trẻ Chăm luôn luôn được đi đến trường…
– Tôn ti trật tự
Quan sát sự sinh hoạt một làng Chăm, chúng ta sẽ thấy họ không sống xô bồ, nhếch nhác mà rất có “tôn ti”: kính trên nhường dưới. Rõ nhất là cách mời ăn ở đám đình hay sinh hoạt nơi công cộng: Không bao giờ thấy một người nhỏ tuổi ngồi phía trên người lớn tuổi hơn mình. Chính do sự tôn ti trật tự này mà trong các đám đình, lễ hội, người ta nhận thấy rằng sự mời mọc các vị khách đến ngồi ở các ván dài để vào tiệc là cả một việc khó khăn vì không ai muốn vào cuộc, người này mời người kia, người kia lại đưa đẩy người nọ. Sự việc này làm cho nhiều người không giấu được sự bực bội của mình mà nhăn nhó! Nhưng lý do của nó thì khá đặc trưng: Ai cũng chờ người khác ngồi trước để mình còn xem xem mình phải ngồi vào chỗ nào mới đúng ý tôn ti “ăn coi nồi, ngồi xem hướng”…
Khi một người con trai trong tộc họ lấy vợ thì cả tộc họ được mời về bàn bạc về việc cưới gả này (mẫu hệ). Có khi ý kiến của người lớn tuổi trong tộc họ lấn át cả ý kiến của cha mẹ.
Chính tôn ti trật tự này làm cho tộc họ Chăm sinh hoạt rất gắn bó và giữ được nề nếp gia phong khá độc đáo.
D. Những nét đẹp của phong tục tập quán Chăm
Theo sự nhận xét của một số nhà tâm lý học thì tính khí con người được hình thành trên những căn nguyên nhất định: ảnh hưởng của thủy thổ, ảnh hưởng của tôn giáo – tín ngưỡng, ảnh hưởng của sự giáo dục từng chế độ chính trị, ảnh hưởng của thời đại. Tất cả những yếu tố đó cộng với ”gien” của dân tộc nếu được nói như thế tác động tổng hợp, tạo nên tính đặc thù của dân tộc đó. Riêng các yếu tố thủy thổ, tôn giáo – tín ngưỡng và “gien” phải là những yếu tố đậm nét nhất, khắc sâu vào tiềm thức cũng như ý thức con người một cách sâu sắc nhất vì chúng mang ý nghĩa nền tảng…
Tôi xin đơn cử ra đây một số tính cách đặc trưng của dân tộc Chăm để làm chứng cứ:
– Tính cộng đồng:
Sinh hoạt trong một xã hội gần như khép kín, người Chăm đã phát huy tính cộng đồng đến mức độ khá cao: Trong các đám đình, đặc biệt là đám tang, người Chăm thường ngưng tất cả hoạt động của mình, dù là hoạt động mang tính cấp bách và quan trọng như “ngày gieo lúa” chẳng hạn, để tụ tập lại hầu giúp đỡ và an ủi gia đình đương sự. Tính cộng đồng này phản ảnh nền văn minh lúa nước và mang đậm nét tác phong nông nghiệp của các dân tộc thiểu số Việt Nam. Dĩ nhiên, trong sinh hoạt công nghiệp hôm nay, tác phong này có phần gây cản trở cho sự thăng tiến và phát triển cộng đồng vì ảnh hưởng đến thời gian (cần tiết kiệm) và sức lao động của con người. Đó là mặt trái của vấn đề (xem thêm bài Thực trạng xã hội Chăm trong Tagalau4). Mặt khác, những công việc thông thường nhưng vượt quá sức lao động của các thành viên trong gia đình như: giở nhà, xây nhà, trét tường, lợp tranh, thường phải nhờ đến lao động cộng đồng. Bà con láng giềng đến giúp đỡ một cách vui vẻ, các ông thì làm những công việc nặng nhọc, các bà thì nấu nướng, phục vụ.
Cũng nằm trong tính cộng đồng này, chúng ta nhận thấy người Chăm hưởng ứng rất nhiệt tình các đợt quyên góp mang tính cách xã hội như: góp quĩ khuyến học, góp quĩ hỗ trợ gia đình nghèo, hỗ trợ bão lụt v.v. Tôi cũng đã từng tham dự các đêm văn nghệ vì mục đích từ thiện ở vùng nông thôn Chăm và đã chứng kiến vài sự kiện khá độc đáo: Những người nông dân hoàn toàn không dư dả gì đã tự động đến sân khấu dâng biếu tiền bạc ủng hộ đêm văn nghệ, và khi loan báo danh sách hảo tâm, từng đợt người tiến lên làm nhiệm vụ của mình một cách vui vẻ và phấn khởi.
– Tính sĩ diện:
Tính sĩ diện của người Chăm có những mặt rất tích cực và đáng được khuyến khích trong sinh hoạt cộng đồng như quan niệm: một người làm xấu cả họ mang nhục, hay: “Dak lihik kabaw yuw, oh dak mưluw bbauk” (Thà mất đôi trâu còn hơn mất mặt). Chính vì vậy mà xã hội Chăm đã khắc phục được nạn trộm cắp hay ăn xin. Trong cộng đồng, không có (hay rất ít) kẻ trộm cắp vì mỗi khi bị bắt thì không những đương sự phải chịu hình phạt của luật pháp mà còn chịu sự phỉ nhổ của dòng họ và xóm làng. Dĩ nhiên những hạng người này bị dư luận nhìn bằng nửa con mắt. Đó cũng là lí do hạn chế được nạn “ăn xin”. Có thể nói trong xã hội Chăm không có người ăn xin. Ai cũng tin như thế. Nhưng áp lực của cuộc sống thực tiễn hôm nay có nơi, có lúc con người khó cưỡng lại nổi, nên mới có một câu chuyện khá bi thương xảy ra tại bến xe P.R. Hôm ấy, tôi phải bắt xe lam về nhà. Trong lúc chờ đủ khách, có một ông bạn đồng hương nói nhỏ cho tôi biết: “Nghe người ta nói ông già ăn xin này là người Chăm ở B.N. Anh thử hỏi ông ta xem sao? Ông này không bao giờ chịu nhận mình là Chăm. Tôi liền ngoắc ông ta lại hỏi nhỏ bằng tiếng Chăm: “Có phải bác là người B.N không? Ông ta liền trả lời bằng tiếng việt: “không phải” rồi bỏ đi ngay. Thái độ của ông ta làm cho tôi càng thêm nghi ngờ và tò mò. Tôi liền xuống xe và chạy theo ông ta. Tôi nói nhỏ bằng tiếng Chăm: “Tôi ở P.N, tôi biết bác lâu rồi, bây giờ bác cực khổ lắm có phải không? Tôi muốn hỏi bác để giúp bác một ít tiền”. Tôi vừa nói vừa rút ra giấy bạc 20.000đ. Ông ta ứa nước mắt và trả lời: “Đúng tôi ở B.N. Vì quá cực khổ mới phải đi ăn xin”. Tôi không dám nhìn ông ta lâu sợ không cầm được nước mắt trước sĩ diện của một người cùng cực như thế!
Một vấn đề khác, vấn đề đĩ điếm cũng không có đất để cắm rễ trong xã hội Chăm, Vì búa rìu dư luận không bao giờ tha thứ và dòng tộc không bao giờ chấp nhận. Cái đáng tôn vinh ở đây không phải chỉ hạn chế được những tệ nạn xã hội ấy mà còn khuyến khích những cái hay cái tốt như: cử chỉ bác ái, tính hào hiệp, con cái thành đạt…v.v…..Trong xã hội Chăm, người ta rất quí trọng người giàu, không những giàu vật chất mà cả tinh thần nữa, nghĩa là không những có nhiều của cải, lúa gạo mà còn tràn đầy tình nghĩa và phúc đức đối với bà con xóm làng.
Mặt trái của vấn đề cũng đáng cho ta phải đề cập đến vì sĩ diện không đúng chỗ, hiểu không thấu đáo sẽ trở thành tai họa cho xã hội: không ít người Chăm chỉ vì không muốn thua kém chị kém em trong các đám đình của gia đình (như đám cưới, đám tang) mà phải đem con đi ở đợ để được bằng hay hơn người. Như thế, gia đình sẽ không bị dư luận chê bai mà còn được tán dương, quí trọng nữa! Đúng là sĩ diện hão.
– Tính tiết kiệm:
Mang tác phong nông nghiệp và sinh hoạt theo nhịp sống thanh thản êm xuôi của vùng nông thôn, người Chăm dứt khoát không phải là hạng người sống xa hoa, vung tiền qua cửa sổ. Trong lúc thiếu thốn đã đành nhưng khi họ làm ra tiền hay được mùa họ cũng biết dành dụm, chắc chiu từng đồng lẻ. Họ ăn uống cũng như ăn mặc rất thanh đạm và khiêm tốn nếu không nói là kham khổ. Nhờ biết tiết kiệm mà người Chăm đã biết tích lũy để khắc phục được các nạn đói kém lúc mất mùa hay bị thiên tai địch họa trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
Tuy kinh tế nhìn chung chưa phát triển cao, vì sống trong vùng khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, nhưng người Chăm vẫn có cuộc sống tương đối ổn định, nhà cửa khang trang, tươm tất lại còn có thể cho các con đi đến trường, không đứa nào phải thất học. Như vậy, họ làm cách nào để tạo được lối sống như thế? Chắc chắc là phải do biết tiết kiệm trước nhất để có của ăn của để, sau đó mới nói đến sự biết tính toán, xoay sở và cần cù lao động để vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Rõ ràng trong sinh hoạt hàng ngày, biết làm ra tiền chưa đủ, mà phải biết giữ tiền mới là yếu tố quyết định, nếu không thì sẽ như “gió vào nhà trống”.
Tục ngữ phương Tây có câu: “Gia tài có được là do bàn tay mặt khéo léo và bàn tay trái tiết kiệm”. Sở dĩ người Chăm biết dành dụm, tích lũy là do phải thích nghi với cuộc sống luôn phải đối phó với môi trường tự nhiên của miền Trung khắc nghiệt, hàng năm phải đương đầu với lũ lụt và hạn hán rất gay gắt.
Tiếc thay, tính cách cần kiệm rất quí này đã giúp người Chăm xây dựng nên cơ nghiệp trong quá khứ nay lại phai mờ dần trước cuộc sống ồ ạt của thời đại mới mà cộng đồng Chăm cũng bị cuốn theo cơn lốc đua đòi và sĩ diện hão để phung phí trong các đám đình, lễ hội, và xây cất nhà cửa hiện đại trong lúc còn nhiều khó khăn, túng thiếu. (xem thêm: “Thực trạng xã hội Chăm,…”, Tagalau 4).
– Cách bố trí nhà cửa trong thôn xóm Chăm:
Khách thập phương đến các vùng dân tộc Chăm (nhất là vùng Ninh Thuận và Bình Thuận) sẽ ngạc nhiên không ít về cách bố trí nhà cửa ngay hàng thẳng lối của thôn xóm. Mỗi ngôi nhà phải có rào dậu xung quanh. Rào dậu thường làm bằng cây khô hay tre, nhưng nay được thay thế bằng loại cây sống (như keo dậu, cây thuốc dấu, cây bông bụt) hoặc xây bằng táp-lô. Tất cả dãy nhà này đều xếp theo chiều Bắc Nam thẳng tắp và cửa ngõ đều đồng loạt trổ về gốc Tây Nam và hướng về phương Nam. Vì vậy, khách từ phương xa đến, sẽ rất lấy làm lạ về cách bố trí có qui củ nhất định này và từ làng này đến làng khác. Đường sá giữa hai dãy nhà thì khá rộng, hẹp nhất là đủ cho hai chiếc xe bò đi ngược chiều di chuyển được. Các con đường ngang thì hẹp hơn, rộng nhất là đủ cho một chiếc xe bò đi mà thôi. Chính vì thế mà đường xá trong các thôn ấp Chăm từ xưa đến nay vẫn theo một khuôn mẫu đúng phong tục qui định, thật nề nếp và khang trang. Không một người nào dám “xé lẻ” nghĩa là tự xây dựng một ngôi nhà riêng rẻ, không đứng vào dãy rào nào. Làm như thế người Chăm tin là sẽ gặp nhiều xui xẻo: bệnh hoạn, làm ăn không phát đạt, gặp nhiều rủi ro trong đời sống. Đây cũng là ưu điểm lớn của phong tục tập quán Chăm góp phần làm cho cuộc sống được nhiều thuận lợi, hướng đến văn minh, tiến bộ.
*
Mỗi dân tộc có những lối sống riêng biệt, đặc trưng của dân tộc mình. Chính vì vậy, việc tìm hiểu thấu đáo văn hóa của một dân tộc là một việc khá phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Qua phác thảo trên đây về nếp sống của người Chăm, tôi chỉ mong muốn giới thiệu khái quát về những nét đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc Chăm cho các độc giả và cũng qua đó hướng dẫn những khách thập phương thâm nhập vào một vài sinh hoạt xã hội Chăm đầy bản sắc đặc trưng như là một tiếp xúc ban đầu. Và qua sự tiếp xúc này, khách sẽ không còn bỡ ngỡ khi trở lại plây Chăm và sẽ khám phá nhiều điều thú vị hơn.
Mặt khác, qua những nét đặc trưng của bản sắc văn hóa dân tộc Chăm, tôi cũng mong muốn lạm bàn đến việc bảo tồn văn hóa dân tộc là một việc làm có tầm mức quan trọng hàng đầu mà bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào cũng phải đặc biệt quan tâm. Trước sự giao lưu ngày càng mở rộng về mọi mặt với các nước trên thế giới và trước sự mở cửa để hòa nhập với nền kinh tế thị trường quốc tế, nếu Việt Nam nói chung và các dân tộc thiểu số nói riêng, không bảo tồn được bản sắc văn hóa của dân tộc mình thì sẽ đi đến ”hòa trộn” và “hòa tan”, nghĩa là “người Việt Nam chỉ còn thể xác là Việt Nam, nhưng tâm hồn là của nước ngoài”, như nhà dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn đã nhận định.
Để kết thúc bài tiểu luận này, tôi xin đơn cử câu nói mang nặng tính cách triết lý giáo dục của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt để cho độc giả suy ngẫm: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc, một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả”.
*
Tagalau 8.
Cám ơn chú, con đã hiểu rõ hơn về văn hoá của dân tộc mình.