Chuyển giao Tagalau cho thế hệ mới, hai lần hỏng cả hai. Có rất nhiều nguyên do chính đáng, ở đó nguyên do của mọi nguyên do là: không YÊU. “Yêu nhau mấy núi cũng trèo/ mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”.
Gặp các bạn trẻ Cham, tuổi trên 30, câu hỏi của tôi: Triết lí sống của bạn là gì? Và đâu là mục đích cuộc đời bạn, nói khác đi – bạn YÊU gì, cụ thể hơn, bạn MUỐN gì, muốn một cách nghiêm túc?
Cuối cùng bạn chuẩn bị gì, và đã sẵn sàng cho MUỐN đó chưa?
Từ Văn học Cham,
Từ thiếu niên qua thời bao cấp, trong tay không mảnh tư liệu, túi rỗng bụng không, “từ con số không, từ con số âm – có lẽ”, tôi đi. Dù trước mắt mục tiêu mờ mờ nhân ảnh dễ làm nhụt chí, nhưng tôi tin “lâu đài văn học Cham” đang ở phía trước.
Rồi đến tuổi 30, dù đã có vốn lận lưng, tôi không nóng vội cho nó xuất hiện, mà phải đúng 10 năm sau mới cho ra mắt bộ Văn học Cham-1995.
Đói khát – làm, “đại gia” – vẫn làm. Hết mình và tới cùng!
Qua Văn chương,
Thuở Pô-Klong, có đến chục bạn đồng trang lứa làm thơ, trong đó vài đứa rất khá. “Giải phóng”, tất cả lao vào “chuyện áo cơm tất bật/ mang vợ con bên đời”, thơ ca bay mất tiêu, mỗi tôi ở lại.
Sinh viên: viết; bỏ giảng đường về quê nắm đuôi cày: viết; làm rau muống: viết; đi tu: viết; buôn bán lẻ: viết; độc thân hay gánh cả vợ con: viết. Vô danh: viết, nổi tiếng: viết.
Viết và xé bỏ, rồi viết. Đóng tập, vứt bỏ, lại viết.
Vào Sài Gòn, trong tay có ba trường ca với hơn 200 bài thơ được giữ lại, dù có cơ hội với đủ điều kiện, tôi quyết không gửi đăng báo hay in tập, để mãi tuổi tứ thập mới cho nó ló mặt.
Giú mình trong bóng tối vô danh, để khi xuất hiện, nó phải rườm rà, chớ không nhợt nhạt vô hồn. Đó là yêu, chớ ham hố nhất thời, hoặc quá giang thơ để làm cái gì đó, là bạn yêu thứ gì khác chớ không phải thơ.
Thời cơm độn, tôi viết dưới leo lét đèn cày, tiểu thuyết sử thi Con đường vô tận-1990 là một. Túi rủng rỉnh tiền – tôi vẫn miệt mài, chứ không ăn chơi phè phỡn, tiểu thuyết Chân dung Cát-2006, là hai.
Đến Tình yêu đôi lứa
Yêu là lì lợm, là dai mặt, là… nhưng tuyệt không ý hướng chiếm hữu, mà:
Tình yêu là cho đi – không đo đếm, như “dòng sông cho và đi…”.
Tình yêu là tin tưởng nhau mà không sợ hãi, sợ bị mất, bị phản bội.
Qua tình yêu, hai sinh thể khác nhau khám phá lại mình, phát hiện những vi tế của cảm xúc và tư tưởng, từ đó họ hiểu mình hơn.
Từ hành trình khám phá ấy, cả hai tự nguyện làm chất trụ nâng đỡ nhau, và như hai sinh linh khác biệt làm đầy tràn chính mình và đầy tràn nhau, như hai con người trường thành.
Cuối cùng, yêu là tạ ơn, bởi “tạ ơn làm cho ta lớn lên”.
Nếu vì nguyên do nào đó mà mất nhau, tình yêu chỉ buồn – BUỒN MÊNH MANG, chứ không sầu khổ, than vãn, trách móc.
Tại sao cần triết lí yêu? Thiếu triết lí, bạn sẽ lan man, lang thang vô định, hay đụng đâu dính đó. Bạn thông minh, thêm kiến thức nữa, khi không biết mình ĐI ĐẾN ĐÂU, bạn chỉ biết bạ đâu làm đấy, bạn bị dẫn dắt bởi vô số ngẫu nhiên bất chợt xảy đến, để cả đời làm “con rối cho cuộc đời giật dây” (Chế Lan Viên).
Có triết lí, bạn không tùy tiện chủ nghĩa: “Ra đi gặp vịt cũng lùa/ Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu”, mà đi trên con đường chọn lựa, tự tin “gậy mình mình vác, đường mình mình đi, giữa đồi núi chập chùng”, không cần biết kẻ xung quanh nghĩ gì, làm gì, và thây kệ họ giàu có hay nổi tiếng tới đâu.