Tham luận tại Hội thảo Khoa học quốc gia: “50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất”, 14g, ngày 18-4-2025
Đặt vấn đề
Việt Nam là đất nước đa dân tộc. Hơn 54 dân tộc cư trú rải khắp mọi miền tổ quốc, là nguồn vốn con người và văn hóa vô cùng quý giá.
Văn hóa một dân tộc tồn tại ở bản sắc, phát triển ở tiếp nhận và sáng tạo. Câu hỏi, thế nào là bản sắc? Ta chỉ hiểu được bản sắc một cái gì đó khi đặt nó bên cạnh một/ những cái khác. Đâu là bản sắc văn hóa dân tộc của các DTTS? Ở phạm vi hẹp hơn, văn học – đâu là bản sắc, cái khác biệt của văn học DTTS khả dĩ làm đa dạng thêm nền văn học đa dân tộc Việt Nam?
Văn chương cổ điển, DTTS đã cống hiến nhiều độc sáng. Sử thi Đam San, Xinh Nhã, Xống Chụ Xon Xao, Đẻ đất đẻ nước, Mo Mường, Akayet Dewa Mưno… Đó gần như là nguồn suối vô tận cho thế hệ đi sau khai thác. Tiếp thu cái cũ, hỏi nhà văn DTTS đã nêu bật được các bản sắc độc đáo đó chưa? Tiếp thu và sáng tạo, để có đóng góp mới – hỏi, ta đã làm được gì với kho tàng trân bảo do ông bà để lại? Làm được, thậm chí có thể nói – làm được khá nhiều. Thế nhưng tất cả vẫn chưa thấm vào đâu, so với thực tế cuộc sống đòi hỏi. Diễn tả bằng ngôn ngữ dân tộc, hay cả khi các nhà văn Tày, Nùng, Khmer, Chăm, Thái… thể hiện qua tiếng Việt, thành tựu vẫn còn rất hạn chế. Mãi đến hôm nay – ngoại trừ Chăm với đặc san Tagalau, sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu Chăm(1), các dân tộc khác vẫn chưa có tạp chí riêng. Thậm chí có dân tộc còn chưa có nhà văn của mình.
Thực trạng văn học DTTS Việt Nam
1. Văn xuôi
Đất nước thống nhất, ở các tỉnh phía Bắc, song hành với sự nở rộ của thể loại thơ, văn xuôi các DTTS phát triển đều và rộng, với hàng loạt tác giả tên tuổi: Mã A Lềnh (1943, Mông, Lào Cai), Ma Trường Nguyên (1944, Tày, Thái Nguyên), Cầm Hùng (1945, Thái, Sơn La), Sa Phong Ba (1948, Thái, Sơn La), Hoàng Hữu Sang (1950, Tày, Yên Bái), Nguyễn Minh Sơn (1951, Tày, Thái Nguyên), La Quán Miên (1951, Thái, Nghệ An), Đoàn Lư (1959, Tày, Cao Bằng).
Sau những dọ dẫm, bước sang thế kỉ XXI, văn xuôi khu vực này đã tiến những bước nhảy vọt, cả về chất lẫn lượng. Hà Thị Cẩm Anh (1948, Mường, Thanh Hóa), Hoàng Hữu Sang (1950, Tày, Yên Bái), Bùi Minh Chức (1950, Mường, Hòa Bình), Hữu Tiến (1952, Tày, Cao Bằng), Hà Lý (1956, Mường, Hòa Bình), Đoàn Ngọc Minh (1958, Tày, Cao Bằng), Lang Quốc Khánh (1959, Thái, Nghệ An), Bùi Thị Như Lan (1967, Tày, Bắc Kạn), Kha Thị Thường (1979, Mường, Nghệ An).
Đoạt giải B Hội Nhà văn Việt Nam với tập truyện ngắn Hoàng hôn, nhà văn dân tộc Mường Hà Trung Nghĩa chuyển sang viết tiểu thuyết với hàng loạt tác phẩm ra đời: Lửa trong rừng sa mu, 1999, Gió bụi nhân gian, 2001, Bão từ hai phía, 2006. Khác với Hà Trung Nghĩa, Hà Thị Cẩm Anh (1948, Mường, Thanh Hóa) chuyên trị truyện ngắn. Các truyện ngắn của nhà văn này vừa tinh tế vừa đầy trải nghiệm. Một năm sau khi đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn (2003-2004) báo Văn nghệ, Hà Cẩm Anh cho xuất bản tập truyện ngắn Nước mắt của đá, 2005.
Được biết đến nhiều hơn cả là nhà văn Cao Duy Sơn (1956, Tày, Cao Bằng) sau tập truyện ngắn Những đám mây hình người (2002) là Ngôi nhà xưa bên suối (truyện ngắn, 2007) – tác phẩm đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2008, sau đó là Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2009. Ngay năm sau, anh ra tiếp tập truyện ngắn Người chợ (2010). Cao Duy Sơn là nhà văn thành công ở cả hai mảng: truyện ngắn và tiểu thuyết. Nổi bật nhất ở thể loại này là Đàn trời (2006) nhận Giải thưởng Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam, sau đó là Chòm ba nhà (2009).
Cũng không nên quên Hoàng Quảng Uyên (1950, Nùng, Cao Bằng) hay nhà thơ như Y Phương (1948, Tày, Cao Bằng) đã kịp cho ra đời các tập tản văn thể hiện được các nét độc đáo mang tính vùng miền, rất đáng đọc.
Cùng với những nỗ lực cách tân thơ, văn xuôi các dân tộc thiểu số phía Bắc đã có chuyển biến lớn từ lối viết cổ truyền sang lối viết vận dụng nhiều yếu tố hiện đại, từ kể sang tả, từ khái quát bề mặt sang phân tích tâm lý chiều sâu, đa dạng và đa diện hơn.
Khác hẳn sự phát triển văn học của các DTTS ở phía Bắc, thể loại nổi trội nhất của các nhà văn sống ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, chính là văn xuôi.
Khởi đầu với Y Điêng (1928, Êđê, Phú Yên) với các tập truyện ngắn và kí: Đrai Hlinh đi về phía sáng (1985), Lửa trong tay chúng tôi (2005), Sông Hinh con sông quê hương (2005). Truyện dài: Ba anh em (1996), Chuyện bên bờ sông Hinh (2001); qua Kim Nhất (1945, Bana, Đăk Lăk) đi suốt hơn mươi tác phẩm từ tập truyện ngắn đầu tay Mụ Xoại (1994) cho đến tiểu thuyết Luật của rừng (2008), cũng là văn xuôi. Rồi Linh Nga Niêkđam (1948, Êđê, Đăk Lăk) sau khi làm nhiều “nhà” đã trở lại với văn chương, cũng viết văn xuôi nốt. Từ tập truyện ngắn: Con rắn màu xanh da trời (1997), Gió đỏ (2004) cho đến tập bút kí: Trăng Xí Thoại (1998), Đi tìm hồn chiêng (2003).
Văn xuôi ở khu vực này vẫn nằm trong dòng chảy chung của trào lưu hiện thực xã hội. Truyện ngắn hay tiểu thuyết như thể một thứ bút kí hay ghi chép nâng cấp, từ chuyện thực trong đời thực được nhà văn hư cấu thêm, sắp xếp có lớp lang để thành truyện. Câu chuyện dài với nhiều nhân vật thì thành truyện dài, dung lượng ít hơn thì là truyện ngắn. Thế thôi! Thế nên có cảm giác chung là đọc bút kí hay ghi chép của Y Điêng hay Linh Nga thì thích hơn các truyện của họ.
Thế hệ mới, Niê Thanh Mai (1980, Êđê, Đăk Lăk) xuất hiện qua ba tập truyện ngắn: Suối của rừng (2005), Về bên kia núi (2007), Ngày mai sáng rỡ (2010) dù có đôi nét hiện đại đề cập đến cuộc sống hiện đại với tâm thế của con người hiện đại, cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Nhà văn mãi sắm vai tác giả – thượng đế: Nghe và thấy tất cả, hiểu tất cả, nói tất cả. Rất ít có nhân vật xưng tôi ở đó, nghĩa là đầy chủ quan như một tác phẩm nghệ thuật hiện đại đòi hỏi.
“Tất cả” đây cũng chưa khai lộ được các tầng sâu văn hóa vùng miền với những nét đẹp từng được nhiều nhà nghiên cứu Tây phương cho là huyền bí đầy lôi cuốn của Tây Nguyên(2); cũng chưa phơi bày được hiện thực cuộc sống với những đảo lộn gần như toàn triệt của không gian văn hóa, môi trường tự nhiên hay đời sống tinh thần dẫn tới bao mất mát, thất thố, bất lực đang lồ lồ hằng ngày, trước mặt và xung quanh.
Qua dân tộc Chăm, Trà Vigia (1957, Ninh Thuận) với tập truyện ngắn Chăm H’ri (2008), kể câu chuyện thường ngày mắt thấy tai nghe liên tưởng đến tầng sâu văn hóa – lịch sử về vài hiện tượng trong đời sống tinh thần và tâm linh. Ở Trà Vigia đan xen hiện thực và huyền thoại, thực tế và tưởng tượng. Chuyển từ thơ, nghiên cứu và phê bình sang tiểu thuyết, Inrasara cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết dày dặn: Chân dung Cát (2006) và Hàng mã kí ức (2011), ở đó câu chuyện khác về Chăm được kể bằng giọng khôi hài, giễu nhại đẫm chất hậu hiện đại.
Một hiện tượng khá lạ là, ở miền Tây, cộng đồng dân tộc Khmer chưa bật lên một cây bút văn xuôi nào. Tại sao? Đó là một điều cần lý giải.
2. Thơ
Các cây bút DTTS mạnh về thơ, là điều dễ nhận thấy. Tham luận nhấn về thể loại này. Tạm phân thơ của người DTTS làm hai bộ phận:
2.a. Thơ tiếng Việt
Sau thế hệ đầu còn chập chững: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Mã Thế Vinh, Vương Trung; thế hệ thứ hai xuất hiện hàng loạt tên tuổi sáng giá: Vương Anh (1944, Mường, Thanh Hóa), Lâm Quý (1947, Cao Lan, Vĩnh Phúc), Lò Ngân Sủn (1945, Giáy, Lào Cai), Pờ Sảo Mìn (1944, Pa Dí, Lào Cai), Y Phương (1948, Tày, Cao Bằng), Mai Liễu (1950, Tày, Tuyên Quang), Inrasara (1957, Chăm, Ninh Thuận), Lương Định (1957, Tày, Lạng Sơn), Dương Thuấn (1959, Tày, Bắc Cạn), Lò Cao Nhum (1954, Thái, Hòa Bình)… bắc qua thế hệ nhà thơ trẻ đầy tài năng như: Bùi Tuyết Mai (1971, Mường, Hòa Bình), Jalau Anưk (1975, Chăm, Ninh Thuận), Nông Thị Hưng (1977, Tày, Bắc Giang), Thạch Đờ Ni (1977, Khmer, Bạc Liêu), Tăng A Tài (1978, Dao, Quảng Ninh), Hoàng Thanh Hương (1978, Mường, Gia Lai), Đinh Thị Mai Lan (1979, Tày, Cao Bằng), Vi Thùy Linh (1980, Tày, Hà Nội), Hoàng Chiến Thắng (1980, Tày, Bắc Kạn), Phạm Mai Chiên (1981, Thái, Nghệ An), H’trem K’nul (1983, Êđê, Đăk Lăk), Đàm Thị Hải Yến (1984, Nùng, Cao Bằng), Tuệ Nguyên (1984, Chăm, Ninh Thuận), Phùng Hải Yến (1985, Dao, Lai Châu), Bùi Thị Dáng Hương (1987, Mường, Hòa Bình), Ngô Bá Hoà (1987, Tày, Lạng Sơn), Thèn Hương (1983, Nùng).
Các tác giả thuộc nhiều dân tộc khác nhau cư trú ở nhiều vùng miền khác nhau. Tên của dân tộc và vùng đất mình sinh ra hay cư trú luôn được gọi lên trước tiên. Từ người Tày cư trú đất Bắc nơi đỉnh đầu Tổ quốc:
Cô gái Tày sông Hiến thuở hồng hoang
Non nước Cao Bằng vời vợi biên cương
Anh đắm say qua ngọn nguồn em kể
Những Mã Phục, Đèo Mây, Đèo gió…
(Lương Định, “Phương ấy ban mai”)
Đến người Êđê ở Tây Nguyên:
Già đang khan
Già say lời kể
Người nghe say lời già
Già kể từ ngày trước
Ngày sau chưa hết lời
(H’triem K’nul, “Người kể khan”)
Xuống đồng bào H’rê đang sinh sống nơi khúc ruột miền Trung:
Lũ con iêng
Ngực non như trái hoa chuối
Ra con suối đội nước
Chọn lấy nước giữa dòng
Nước chảy từ lòng đá
Ngọt như trái Kapong – Kapang
Mát như gió núi Azin – Azàn…
(Nga Rivê, “Con iêng, xang éo”)
Sang tận dân tộc Châu Ro ở Đông Nam Bộ:
Châu Ro – Ta là ai?
Từ đâu đến?
Từ Cửu Long giang cổ quàng phù sa đỏ?
Từ biển biếc xa vời sóng vời lưng cát nhỏ?
(Prékimalamak, “Châu Ro ta là ai”)
Rồi Thái, Mông, Nùng, Kơ Ho, Mường, Hoa, Cao Lan, Chăm, Hà Nhì, Dao, Pù Nả, Vân Kiều, Xá Phó, Padí… Do đó, mặc dù thơ không phải là thể loại kể lể chuyện phong tục tập quán, tái hiện đời sống hiện thực, tuy nhiên có thể nói hầu hết các tên lễ hội cùng đặc ngữ với những đặc trưng văn hóa vùng miền đều được gọi tên qua thơ. Những thổ cẩm, thắng cố, vũ nữ Apsara, múa Xòe, Tung Còn, Katê, phum, sóc, plây, amí, amư, tiếng cồng chiêng, lời kể khan… có mặt dày đặc. Có mặt, không để tăng chất dân tộc trên trang viết, mà xuất phát từ thẳm sâu tình cảm của người thơ với những gì gắn bó nhất và thân thuộc nhất của mình. Không có không được. Bởi chỉ như vậy thôi, tiếng thơ ấy mới rung động được lòng người.
Nghệ thuật
Lối nói dân dã và hiện đại được kết hợp khá nhuần nhuyễn. Bùi Tuyết Mai vẫn giữ lại sự chừng mực nhất định ở truyền thống:
Hãy dừng chân nhà em một đêm
Chỉ một đêm thôi
Cho con ngựa anh nghỉ ngơi
Hãy nán lại nhà em một đêm
Chỉ một đêm thôi
Cho con ngựa anh uống nước
Hãy nghỉ lại nhà em một đêm
Chỉ một đêm thôi
Cho con ngựa anh ăn vài đấu ngô thơm
Hãy ở lại nhà với em một đêm
Một đêm thôi…
Qua lối suy nghĩ và nhịp điệu thơ, nhiều nhà thơ các dân tộc anh em ở phía Bắc có lối suy nghĩ rất mới, tuy thế nhịp điệu thơ truyền thống vẫn được giữ lại. Hoàng Chiến Thắng:
Đứa trẻ bưng tuổi thơ
chạy ngược
Tiếng rao vỡ vào phố đêm
… Người đàn bà cõng mưa
Che con
Tiếng đàn rong va vào ngõ phố
(“Phố đêm”)
Cùng thế hệ với Hoàng Chiến Thắng, Tuệ Nguyên đất nắng Phan Rang thể hiện khác, nhà thơ này chọn nhịp chỏi, trúc trắc:
– Tôi đang sống cùng thời đại với họ,
nhưng khi họ cứ mải mê dò từng bước để đi thì tôi lại nằm một xó tập bay
– Tôi đi vào con đường không có bảng chỉ dẫn
mỗi lần lầm lạc tôi bắt đầu đánh dấu
Đề tài thơ. Chủ đề chính của đa phần nhà thơ là những gì gần gũi, quen thuộc của không gian quê nhà, còn nhà thơ Chăm động cấp đến các đề tài rộng hơn, góc cạnh hơn. Thử lượm nhặt nhẫu nhiên từ một tuyển tập qua vài nhà thơ quen thuộc thuộc các dân tộc khác nhau, dễ thấy rằng: Trong lúc Vương Anh (dân tộc Mường) xuất hiện với “Hoa trong Mường”, “Cơm mường Vó”, “Tình còn tình chiêng”, “Buộc chỉ cổ tay”; Lương Định (dân tộc Tày): “Lời người cha lũng núi”, “Núi và hòn đá lẻ”, Ngẫu hứng đêm lễ hội”, “Đêm Stiêng”; Pờ Sảo Mìn (dân tộc Padí): “Cây hai ngàn lá”, “Tiếng chim Péc-kà”, “Gọi thầm Sapa”; Lâm Quý (dân tộc Cao Lan): “Đêm vùng cao”, “Nếu em bỏ ôm chồng”, “Tiếng khèn”, “Thêu cả bốn mùa”… thì Trà Vigia qua “Bài thơ tình tưởng tượng”, “Bây giờ là bao giờ”, “Cõi mưa xưa”, “Dự cảm ngày qua”, “Hành hương tôi”, “Khoảng lặng”, “Lưỡng tính”, “Miên du”… Hay Jalau Anưk với “Tôi”, “Gởi bạn”, “Dưới vòm trời là những mái nhà”, “Tiên tri”, “Trên đường đi”… rất khác(4).
Thủ pháp. về thể thơ, sự khác biệt càng lộ rõ.
Khi đại đa số nhà thơ DTTS khác ở lại với thơ lục bát, thơ năm chữ hay tám chữ biến thể của Thơ Mới, thơ tự do có vần hay không vần đơn, cá biệt hơn – nhà thơ Thạch Đờ-ni ở miền Tây Nam Bộ vẫn còn sáng tác thơ bằng thể thơ “lục bát” Khmer – là cái hay riêng của nhà thơ người Khmer này, thì hầu hết cây bút Chăm đã góp vào sự khác biệt. Inrasara làm thơ Tân hình thức, Trần Wũ Khang: thơ hình họa, Tuệ Nguyên: thơ xuôi. Điều đáng ghi nhận là mới nhất, Thèn Hương nhà thơ nữ dân tộc Nùng qua tập thơ Giấc mơ của một loài cỏ (2023) đã vận dụng kết hợp nhiều thể thơ trong cùng một tập, trong đó có cả thơ xuôi, lẫn thơ đối thoại.
Về mĩ học sáng tác cũng thế, các nhà thơ DTTS nhất là các cây bút Chăm đi từ hiện đại, đến hậu hiện đại sang Tân hình thức, nghĩa là luôn cập nhật cái mới đương diễn ra. Sự khác biệt còn thể hiện ngay trong rất nhiều biện pháp tu từ, ở đó thủ pháp so sánh là một phần nhỏ. Htrem K’nul dân tộc Êđê ở Tây Nguyên so sánh đơn, gần và cụ thể:
Giọng già như gió cuốn bụi bay
Giọng già như hổ gầm buổi tối
Giọng già như suối chảy đầu hôm
(“Người kể khan”)
Còn Inrasara có lối so sánh phức hợp, đa tầng:
Cây xương rồng như nhà sư khất thực theo vết chân gió trái mùa lang thang
Lạc bước qua triền đồi quê tôi để bị chịu cầm tù trong cát…
Như ẩn sĩ cô đơn – yêu thương mà không cần nước mắt
Sẵn lòng cho nụ cười khinh bạc của lùm cỏ dại hay cụm mây hoang
(“Sinh nhật cây xương rồng”, 1997)
Ngôn ngữ thơ. Ở Tuệ Nguyên, ngôn ngữ đường phố xuất hiện dày đặc: “thế hệ già bảo thủ”, “những đứa con hư hỏng nổi loạn và bất trị”, “những đứa con yêu cuồng dại tự do”… Rồi các bài thơ ở đó xuất hiện tiếng Cham độn tiếng Việt, tiếng Anh không phải là hiếm ở Jalau Anưk. Ngôn ngữ thơ nói lên cái nhìn phản tỉnh, quyết liệt.
Tất cả có mặt để làm nên một bản giao hưởng thơ tiếng Việt của các tác giả dân tộc thiểu số Việt Nam, quen mà lạ, góp phần đáng kể vào nền thơ ca đa dân tộc Việt Nam.
2.b. Thơ tiếng dân tộc thì sao?
Nhà thơ là kẻ cư trú trong ngôn ngữ dân tộc. Tắm gội đông thời làm tươi mới ngôn ngữ dân tộc. Nhà thơ dân tộc thiểu số đã làm được gì cho tiếng mẹ đẻ của mình?
Thử nêu ba khuôn mặt tiêu biểu. Lò Ngân Sủn, trong khi thơ tiếng Việt 9 tập, thì thơ song ngữ của nhà thơ dân tộc Dáy này chỉ có 1: Đầu nguồn cuối nước. Inrasara dân tộc Chăm đỡ hơn, thơ tiếng Việt 5 tập, thơ tiếng mẹ đẻ 1, thêm 1 tập thơ song ngữ Chăm Việt. Tương tự, Dương Thuấn, thơ tiếng Việt 8 tập, thơ song ngữ 1, thơ tiếng Tày 1(3).
Như vậy, dù ưu tiên sáng tác bằng tiếng phổ thông, các nhà thơ người DTTS vẫn chú ý đến tiếng mẹ đẻ, vẫn còn quan tâm đến đào sâu vào văn chương – ngôn ngữ dân tộc để làm giàu sang tiếng dân tộc đồng thời khai thác khía cạnh độc đáo trong ngôn ngữ dân tộc, từ đó vận dụng vào sáng tác thơ bằng tiếng phổ thông. Đây là điều rất cần thiết, sự thể tác động qua lại mang tính biện chứng trong phát triển ngôn ngữ thơ ca. Chính nhờ vận dụng lối nói, lối nghĩ dân tộc vào thơ mà các nhà thơ DTTS đã tạo được vài giọng riêng đóng góp vào nền thơ Việt thời gian qua.
Như vậy vẫn còn là quá yếu so với yêu cầu thực tiễn từ phía ngôn ngữ dân tộc và người đọc là bà con DTTS. Đấy là mới chỉ là kê biên đầu sách mà chưa bàn đến chất lượng.
3. Lý luận – phê bình
Sáng tác phát triển, kéo theo lý luận phê bình phát triển. Lạ là, cùng với tình hình lý luận phê bình của cả nước, ở mảng này của DTTS lộ rõ sự mỏng và yếu của mình. Như thể là không có.
Thời kì đầu, nhà thơ Nông Quốc Chấn mở đầu bằng giới thiệu các khuôn mặt văn nghệ DTTS, bên cạnh nêu bật nét đặc sắc của các sáng tác của họ. Nông Quốc Chấn là nhà thơ, ông viết có tính cách ghi nhận đóng góp khiêm tốn của sáng tác dân tộc vào nền văn học đa dân tộc Việt Nam. Các bài viết được tập hợp trong Một vườn hoa nhiều hương sắc in năm 1977.
Đến khi Lâm Tiến (1934, Nùng, Lạng Sơn), sau đó là Hoàng Văn An (1945, Tày, Lạng Sơn) xuất hiện, phê bình văn học DTTS mới có nét riêng. Vừa lý luận vừa phê bình, các bài viết của hai tác giả này vẫn nằm trong chân trời hệ mỹ học cũ. Lâm Tiến đã in: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995), Về một mảng văn học dân tộc (1999), Văn học và miền núi (2002). Hoàng Văn An: Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc (3 tập – 1999, 2003, 2007).
Sau đó ít lâu, bằng sự nhiệt tình, Phạm Quang Trung (1951, Việt, Lâm Đồng) cũng đã đóng góp phần mình vào việc giới thiệu mảng văn học ít nhiều vẫn còn bị xem như vùng ngoại vi này. Hai tác phẩm Thổ cẩm dệt bằng thơ (1999) và Hồn cây sắc núi (2010) là thành quả từ nỗ lực đó. Ông đi nhiều, biết nhiều, không lạ khi bài viết của ông luôn được xen vào mảng đời thực của các tác giả DTTS.
Hoàng Quảng Uyên (1950, Nùng, Cao Bằng) với Một mình trong cõi thơ (tiểu luận, 2000) hay Dương Thuấn cũng đã có cố gắng riêng để giới thiệu các cây bút mới.
Thời gian gần đây, Inrasara đứng ở hệ mỹ học hiện đại và hậu hiện đại, đã nhìn văn học DTTS theo một cách thái khác: ý hướng giải trung tâm trong văn học. Nhiều bài viết về văn học DTTS được in trong 4 tác phẩm: Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo (2006) và Song thoại với cái mới (2008), Nhập cuộc về hướng mở (2014), 24 Khuôn mặt thơ DTTS hiện đại (2020).
Ngoài ra không thể không kể đến các tuyển tập: Các bài thơ – văn hay bên cạnh những bài bình đặc sắc của nhiều tác giả và nhà phê bình cả người DTTS lẫn người Việt. Nhìn chung, đại đa số phê bình văn học DTTS vẫn còn quẩn quanh ở hệ mỹ học cũ, cảm nhận và giới thiệu nội dung là chính, điểm xuyết mất nét về đời tư như là giai thoại văn học, chứ chưa thật sự đi vào phân tích chiều sâu, bề tối để khám phá bề sâu, mặt tối ẩn tàng sau lớp ngôn ngữ trong chính sáng tác phẩm.
Cuối cùng, điều dễ nhận thấy hơn cả là, đội ngũ: mỏng và yếu và đã… luống tuổi. Nó là vùng đất sắp làm hoang, bởi thiếu đất cho cây văn học phát triển. Ngay tạp chí Văn hóa những Dân tộc của Hội còn èo uột, nói chi chuyên san văn học làm pít-tông đẩy văn học DTTS đi tới. Còn Cham, tuyển tập Tagalau do trí thức của dân tộc này chủ trì biên soạn, qua 21 kì cũng đã về hưu rồi.
Thử bàn sâu hơn về phê bình thơ. Với nhà phê bình thơ DTTS, đâu là vấn đề cần đặt ra? Thứ nhất, bạn tự trang bị tri thức căn bản về văn hóa các dân tộc, mới có thể đánh giá đúng mức thơ của mỗi dân tộc. Thứ hai, bạn quán xuyến được toàn cảnh thơ Việt đương đại, chính lưu lẫn ngoại vi, trong nước và hải ngoại, trung tâm văn hóa lớn và tỉnh lẻ, đa số lẫn thiểu số, để biết thơ DTTS hiện đang đứng ở đâu. Cuối cùng – với thơ DTTS, bạn cần có cái nhìn xuyên suốt ba thế hệ thơ, từ chống Pháp đến Đổi mới và cả hậu Đổi mới.
Kiến thức là vậy, còn tinh thần? Đó là tinh thần phi tâm hóa hậu hiện đại, bởi văn học DTTS nói chung, ở đó thể loại thơ nói riêng vẫn còn bị coi là ngoại vi ít được quan tâm. Tinh thần phi tâm hóa hậu hiện đại cung cấp cho nhà phê bình cái nhìn công bằng và sòng phẳng về các đóng góp của nhà thơ DTTS vào nền thi ca Việt Nam đa dân tộc và đa vùng miền.
Thế nhưng, dù bản sắc thế nào đi nữa, vẫn cần đến thái độ “nhập cuộc về hướng Mở”. Vậy, nhà thơ DTTS làm gì, ngày mai? Bản sắc mà hiện đại, làng quê và thành phố, đi đến tận cùng dân tộc để vươn ra thế giới. Xin được dùng bài thơ “Theo nước đi” của Dương Thuấn đại biểu cho tinh thần mở ấy, làm đoạn kết cho tham luận này:
Người làm nương ăn theo lửa
Người làm đồng ăn theo nước
Sinh ra tắm nước thơm
Mới là con của mẹ
Lớn lên tắm nước sông
Mới thành người của làng
Đóng con tàu đi ra bể
Tắm giữa đại dương
Mới thành người của muôn nơi.
Chakleng, 24-2-2025
_______________
Chú thích
(1) Đặc san Tagalau, Tuyển tập sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu văn hóa Chăm, do Inrasara chủ biên xuất bản số đầu tiên vào Katê 2000, đến năm 2011 đã in được 12 số.
(2) Về văn hóa và cuộc sống của các dân tộc Tây Nguyên, các nhà nghiên cứu và học giả Tây phương đã có những khám phá đồ sộ. Có thể kể các tác phẩm tiêu biểu đã được dịch ra tiếng Việt: Georges Condominas, Chúng tôi ăn rừng (tái bản), Trần Thị Lan Anh… dịch, NXB Thế giới, H., 2008; Henri Maitre, Rừng người Thượng, Lưu Đình Tuân dịch, NXB Tri thức, H., 2008.
(3) Tư liệu về các nhà thơ được rút ra từ các tác phẩm sau:
– Lâm Tiến, Văn học các Dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1995.
– Lâm Tiến, Văn học và Miền núi, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2002.
– Núi mọc trong mặt gương, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1998.
– Tuyển tập văn học Dân tộc & Miền núi I, II, III, NXB Giáo dục, H., 1999.
– Hoàng Quảng Uyên, Một mình trong cõi thơ, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2000.
– Lò Ngân Sủn, Thơ của các nhà thơ Dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2001.
– Lò Ngân Sủn, Vấn đề đặt ra với các nhà thơ Dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2002.
– Nhà văn Dân tộc thiểu số Việt Nam, Đời và văn, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2003.
(4) Núi mọc trong mặt gương – Tuyển tập thơ dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1998.