VĂN CHƯƠNG NÉ TRÁNH HIỆN THỰC, TẠI SAO?

1. Christofer Fredriksson trả lời cuộc phỏng vấn báo Thể thao & Văn hóa, số 142, ngày 28-11-2006:

“Ý tưởng dường như có tính tiên quyết, xem nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng. Nhưng dường như ở Việt Nam các nghệ sĩ ít thích bàn về điều này, họ thường thích làm tác phẩm hơn là nói về các tác phẩm của mình. Họ cho rằng tự tác phẩm đã nói lên điều đó. Nhưng ở trường chúng tôi lại khác, khi một nghệ sĩ làm nghệ thuật thì điều đầu tiên họ phải được học về các vấn đề lí luận nghệ thuật. Sau đó họ bắt đầu viết các dự án nghệ thuật thành các bài viết, rồi mới đến công việc thực hiện các ý tưởng đó. Công việc này được lặp đi lặp lại trong các năm học. Do đó khi một nghệ sĩ ra trường có nghĩa là họ đã có một năng lực lí luận nhất định”.

Ít bàn, ông nói, nhưng thực ra là: không bàn, không muốn bàn, không dám bàn vì, không khả năng bàn, thậm chí – dị ứng với lí luận. Người làm văn học nghệ thuật Việt Nam luôn dừng lại ở phong trào và nghiệp dư là vậy. Đa phần nhà thơ luôn chịu định mệnh một tác phẩm, một bài thơ, là thế. Không ít sáng tác có dấu ấn là sáng tác ăn may, ăn mòn vào năng khiếu “trời cho”. Trời cho tới đâu hay tới đấy, ta thói quen nói như vậy. Một nhà thơ ăn may, thì nó sẽ đến đâu? – Tắc!

Quan điểm sáng tạo cũng góp công sức không nhỏ vào bế tắc của nhà văn hôm nay. Ở Đại hội Những người viết văn trẻ năm 2000, hầu hết cây bút trẻ khi được hỏi về nghề viết đều đồng loạt quan niệm [hoặc không quan niệm gì cả] văn chương là trò chơi. Nhất là nhà thơ. Nhà văn ta chưa bao giờ suy tư qui mô về nghệ thuật, suy tư có tính nền tảng và rốt ráo. Các trào lưu văn học nghệ thuật nảy nở và phát triển sôi động ngoài kia cứ như không là gì cả, với ta.

Chương trình văn chương các Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn [có thể kể luôn Trường viết văn Nguyễn Du nữa] hiểu biết rất sơ sài về chúng. Trong khi nhiều nhà văn [chuyên nghiệp] Tây phương luôn mang ở tự thân khả tính phê bình hay đồng thời là một nhà phê bình, thậm chí – một nhà mĩ học. Còn ở ta thì sao? Dừng lại ở một nhà thơ [kiêm nhà báo], lại là một nhà thơ nghiệp dư, không nhích lên phân tấc.

Thứ văn chương-trò chơi ấy chính là con/ cha đẻ của nền văn học bị nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc kêu đích danh là văn học nghiệp dư, không hơn. Trong lúc, tinh thần chuyên nghiệp khác hẳn tinh thần nghiệp dư ở chỗ nó “đề cao yếu tố kĩ thuật” thay vì tùy thuộc vào cảm hứng, “gắn liền với tinh thần nghiên cứu” thay vì tin cậy vào kinh nghiệm, “luôn luôn có tính tự giác cao (…) trong khi đó, buông thả theo thói quen, tinh thần nghiệp dư lại đầy tính chất tự phát” và nhất là, tinh thần chuyên nghiệp mang tính cạnh tranh chứ không làm qua loa đại khái.

Nhà văn Việt Nam ưa nói về tác phẩm của mình. Nói, không phải mang ý thức tự thân, nghĩa là – không phải nói về hệ mĩ học hay tư tưởng từ đó tác phẩm ra đời, mà là những chuyện ngoài lề, hoàn cảnh ra đời cùng những ý nghĩa “thâm hậu” của nó. Nói, như là diễn ngôn tác phẩm của mình. Anh/ chị hiểu sai ý tưởng của tôi rồi, ý tôi là thế này, thế này đây. Tôi gọi đó là chưa đủ cô đơn cho sáng tạo khi tác phẩm đã ra đời. Một việc làm thay độc giả như thế vừa nhảm vừa vô ích. Nhà văn chuyên nghiệp hành xử khác: suy tưởng và lên kế hoạch trước khi viết, đọc lại tác phẩm đã xuất bản như một nhà phê bình.

Trong ba loại nhà thơ: nhà thơ câu lạc bộ, nhà thơ tiếp hiện và nhà thơ phiêu lưu khai phá, tôi thuộc “loài” nào? Tôi sáng tác theo hệ mĩ học nào? Với tác phẩm này, tôi đã chinh phục được ý hướng của trào lưu này chưa? Tôi sẽ còn mở rộng và vượt lên nó tới đâu? Một nền văn học [hay một nhà văn] tự ý thức buộc phải đặt mình trước những câu hỏi đó. Bởi lẽ khi suy tư về hiện thực, về tư tưởng nghệ thuật, nhà văn không thể không suy tư về kĩ thuật.

2. Việt Nam thiếu truyền thống triết học, là điều miễn bàn. Tuy nhiên nói văn chương Việt Nam hôm nay không bám hiện thực cuộc sống có liên quan mật thiết với sự thiếu khuyết ấy, thì chắc chắn sẽ bị phản đối. Vậy mà lạ thay, đó là sự thật.

Hiện thực là hiện thực nào? Hiện thực như thực của nhà Phật hay hiện thực qua cái nhìn của chủ nghĩa thực dụng Mỹ? Hiện thực của trường phái hiện thực phê phán hay của trào lưu lãng mạn? Của hiện thực xã hội chủ nghĩa hay của trường siêu thực? Của hiện đại hay của hậu hiện đại?…

Sau Freud, ai dám cho rằng các giấc mơ đầy cảnh tượng quái dị không là “hiện thực”? Hoặc họa phẩm với những nét chằng chịt như sợi dây thần kinh của Paul Klee thì kém hiện thực hơn các bức tranh chân dung của họa sĩ thời Phục hưng? Mỗi trường phái triết học, mỗi trào lưu văn học nghệ thuật hiến tặng cho nhân loại cách nhìn mới, khác về hiện thực. Chúng làm phong phú đời sống tinh thần con người. Vấn đề là ta hành xử thế nào với các “phương tiện thiện xảo” đó?

“Suốt đời tôi không làm gì hơn là đẩy cho đến cùng, cái mà quý vị chỉ dám làm có một nửa…” – Dostoievski nói thế. Và ông đã đẩy suy tư tới cùng, phân tích tới cùng tâm lí chiều sâu của nhân vật đủ dạng, qua đó cho ra đời hàng loạt kiệt tác mang tính khai phá lớn, tạo ảnh hưởng sâu rộng đến văn học và tư tưởng thế giới. Còn ở ta, muôn năm nửa chừng. Tiếp nhận trào lưu lãng mạn, nửa đường đứt gánh, thì đã rồi. Sáng tác hiện thực, Balzac đẩy ý tưởng đến cùng để dựng nên Tấn trò đời khổng lồ, ta thì nửa vời để rồi chẳng tới đâu. Chủ nghĩa hiện đại, ở ngoài kia thiên hạ làm nên bao nhiêu tác phẩm sáng giá, ta thì nhập nhằng hiện đại với lãng mạn hậu thời. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, nửa vời – ta thành “hiện thực phải đạo” cho ra lò bao nhiêu thứ phẩm, để chính người đẻ ra chúng cũng phủi tay chối bỏ chúng. Đọc qua các trang văn cuối đời của Nguyễn Khải, để hiểu rằng sau bao trì hoãn và né tránh, rốt cùng đời tài hoa cũng là đời bỏ đi.

“Ngoảnh lại” cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, các nhà văn Trung Quốc cho ra đời hàng trăm tác phẩm “ngang tầm thời đại”; còn ta, sau Cải cách Ruộng đất: trống vắng! Chiến tranh biên giới phía Bắc hay biên giới Tây Nam cũng chịu chung cảnh ngộ. Ngay cả viết về sex thôi, Việt Nam vẫn không thể sở hữu khuôn mặt mạnh bạo, sâu thẳm và cao vời như Henri Miller.

Bởi ở đó ta nửa vời… Chưa được trang bị tri thức triết học, ta không học cách truy vấn tận cùng sự thể. Ta nhìn hiện thực theo cảm tính, quán tính. Tất cả đều diễn ra trên lối mòn quen thuộc. Triết học được biết tới trong nhà trường hiện tại là triết học dạy nói theo, làm theo để tạo sinh hàng loạt thứ theo-ists, chứ không phải huấn luyện thế hệ tương lai tinh thần độc lập để có thể suy tư độc lập, khám phá hiện thực khác với thói thường. Ta không dám thử đi những bước mới, lạ. Cuối cùng, ta nhìn hiện thực một chiều, phiến diện, hời hợt, méo mó,…

Xét ở thượng tầng là vậy. Ngay cả [do đó] ở hạ tầng là chuyện thời sự chính trị xã hội trực tiếp, văn chương Việt Nam vẫn chưa thể đi tới tận cùng của sự kiện. Các mệnh đề “văn học xa rời hiện thực”, “không bám vào hiện thực cuộc sống”, “né tránh hiện thực”… được nhai lại đến thành bão hòa trên sách báo bấy lâu, là điều thật. Nhất là với văn chương dòng chính hôm nay.

*

Tạm gác một bên “văn hóa sợ” (chữ của Phạm Lưu Vũ) biểu hiện “phong phú và đa dạng” qua các ấn phẩm của các cây bút cơ hội, ươn hèn – các ấn phẩm khai sinh trong nỗi lo sợ mất danh, mất ghế, mất miếng ăn, mất các thứ mà văn chương chữ nghĩa từng mang đến cho họ sự no đủ và an toàn – ở đây thử xét qua vài nguyên nhân “cao cả” dẫn đến thái độ né tránh kia.

Trong khu vực văn hóa chữ Hán có truyền thống húy kị. Ở Việt Nam, lịch sử tám thế kỉ húy kị, hàng trăm từ được liệt kê và bổ sung đến các sĩ tử đã phải hao tốn bao nhiêu sinh lực để thuộc lòng. Húy kị từ tên người cho đến những biểu tượng và huyền thoại nhân tạo. Ví có động vào biểu tượng và huyền thoại kia, chữ nghĩa ta cũng dừng lại ở bóng gió, “ẩn dụ”, qua đó sản sinh ra thứ văn chương ám chỉ èo uột. Truyền thống húy kị ăn sâu vào tiềm thức khó gột rửa hình thành nên tâm lí cộng đồng tôn trọng tôn ti trật tự, biết kính trên nhường dưới. Cả ở lĩnh vực văn chương, là nơi chốn rất ít cần đến nó. Cây bút trẻ biết kính trọng nhà văn lão thành, “khiêm tốn” núp bóng các tên tuổi đàn anh đàn chị. Cho nên, ở đó rất hiếm cơ may xảy ra cách mạng văn học, cuộc cách mạng khả tính thay đổi lối nghĩ, lối viết, lối đọc.

Văn hóa văn chương ấy yêu chuộng và khuyến khích tính chung chung nên cho dù có động cập đến hiện thực xảy ra trước mắt, nhà văn Việt Nam vẫn cứ mơ hồ, lớt phớt bề mặt, đầy ước lệ và đại khái. Nhà văn chưa được trang bị kĩ năng quan sát hiện thực nhiều chiều, đa góc cạnh, hiện thực ở bề tối, nơi góc khuất, để có thể phân tích và mổ xẻ chúng tới nơi tới chốn. Từ đó dẫu không có ý né tránh, bởi mơ hồ và đại khái, ta cũng thành né tránh. Nỗi buồn chiến tranh được văn giới chính thống công nhận là xuất sắc, nhưng thân phận của nó ra sao sau khi nó được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam thì thiên hạ đều biết. Đơn giản, bởi Bảo Ninh đã dám thử cụ thể và “khác chiều”.

Nữa, truyền thống xã hội trong đó người đứng đầu đất nước tự xem mình là thiên tử, công dân là thần dân từ chế độ phong kiến Trung Quốc rơi rớt lại vẫn còn hằn đậm trong tâm thức Việt. Nhà văn đụng chuyện thời sự chính trị xã hội, nếu thẳng thừng đến trái ý cơ chế thì dễ bị cho là “bôi đen hiện thực”. Tác phẩm bị ách lại nơi cửa nhà xuất bản, lỡ đã in thì bị thu hồi, kéo theo bao nhiêu là hệ lụy. Đó là còn chưa nói tới người viết nguy cơ bị treo bút. Mà tất tần tật vấn đề xã hội hiện tại, khi đẩy tới cùng thì không thể không vướng vào chính trị. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, thế là nhà văn Việt Nam hè nhau… tránh.

Khác với nền dân chủ Tây phương, truyền thống xã hội Việt Nam về cơ bản thiết định trên tính cố kết gia đình và cộng đồng thay vì tình liên đới giữa các cá nhân độc lập, ưu tiên bảo vệ nề nếp gia phong hay ổn định cộng đồng thay vì đảm bảo quyền lợi cá nhân như là thành tố độc đáo làm nên tập thể nhỏ, lớn đó. Không có gì dở cả. Thế nhưng, văn học là hoạt động sáng tạo độc lập, vận hành trong thiết chế truyền thống kia, đã chịu bao thiệt thòi. Tài năng cá nhân với những suy nghĩ và hành xử cá biệt luôn bị dị nghị. Đòi hỏi nhà văn Việt Nam vượt thoát và “chối bỏ” nó như Cao Hành Kiện đã làm, là điều cực khó khăn. Để được tồn tại giữa lồng môi trường văn hóa ấy, nhà văn chấp nhận thỏa hiệp. Họ sẵn sàng để cho họ hàng thân quyến, anh em bằng hữu can thiệp vào công việc sáng tạo. Kín đáo hay lộ liễu thì cũng vậy. Do đó, tập thể tính là một trong những đặc tính nổi bật của văn chương Việt Nam, – Nguyễn Hưng Quốc nói. “Cá tính” vừa phải như Nguyễn Huy Thiệp thôi, cũng phải chịu cho ra rìa.

Cá tính, độc đáo với ý hướng “đẩy tới cùng” không phải chưa từng xuất hiện trong hành trình sáng tác của nhà văn Việt Nam. Có, nhưng họ biết dừng lại đúng lúc. Còn lại, họ xả pú láp trong các cuộc lai rai bù khú bạn bè, chứ ở văn bản thì – không.

Cá biệt, nhà văn có “lỡ” phơi bày hiện thực nhạy cảm kia ra, đọc lại, họ không ngần ngại tự kiểm duyệt. Hậu đổi mới là thời hoàng kim của tự kiểm duyệt, Phạm Thị Hoài nhận định. Sợ cô đơn, sợ cô độc và sợ cô lập, nhà văn tự thỏa hiệp. Tự thỏa hiệp và tự kiểm duyệt theo nghĩa rộng nhất của từ này. Tự kiểm duyệt trước cả bị kiểm duyệt. Run sợ độc hành trên con đường cô đơn của sáng tạo, nhà văn không dám sống tới cùng tư tưởng chọn lựa, không dám viết tới cùng, và nhất là không dám theo đuổi đến cùng dự án lớn lao không giống ai của mình [nếu nhà văn đã nghĩ ra được và hoạch định trước đó]. Không dám sống, viết, theo đuổi tới cùng, thì làm gì có sáng tạo?

Né tránh hiện thực là hệ quả tất yếu của truyền thống văn hóa văn chương Việt Nam cùng mọi biến tướng của nó.

Nhưng liệu nhà văn còn có thể tránh né hiện thực mãi không? Câu trả lời là: không. Làm nhà văn có nghĩa là bị đẩy xuống tàu. Ngoại trừ văn nghệ sĩ xa lông, hay các cây bút đầu hàng thời cuộc, ngày hôm nay mỗi sáng tác là sáng tác đầy nguy hiểm. Mỗi hành vi công bố tác phẩm là một hành động, và hành động này đặt mình vào sự cuồng nộ của một thời đại không tha thứ (Créer aujourd’hui, c’est créer dangereusement. Toute publication est un acte et cet acte expose aux passions d’un siècle qui ne pardonne rien, – Albert Camus, “L’Artiste et son Temps”).

Hiện thực phổ quát, kèm với nó là sự thống khổ của đám đông có mặt khắp nơi, ở sát cạnh nhà bạn, ngay giữa lòng tập thể nhỏ bé tưởng yên ấm của bạn. Thống khổ và bất công lồ lộ được phương tiện thông tin đủ loại đẩy vào tận phòng ăn, giường ngủ bạn, ám ảnh giấc mơ bạn. Đám đông ấy không để yên cho sự im lặng của bạn, khi im lặng đó bị coi như một thái độ. Họ càng không tha thứ cho tiếng nói của bạn, nếu đó chỉ là tiếng nói lưỡng lự, nửa vời. 

Quần chúng đòi hỏi trách nhiệm của nhà văn. Em bé đánh giày ở Hà Nội bị xua đuổi ra khỏi thành phố ư? – Trách nhiệm thuộc về bạn. Sào lúa gia đình nông dân miền Trung bị lũ quét cuốn mất trắng ư? – Bạn phải chịu trách nhiệm. Bài báo phân tích sâu rộng sự kiện Biển Đông bị bóc khỏi trang mạng ư? – Nhà văn cũng phải chịu trách nhiệm.

Trách nhiệm đòi hỏi nhà văn làm cuộc đoạn tuyệt với xã hội họ sống (la responsabilité supposait une rupture épuisante avec leur société). Sự cắt đứt dứt khoát và kiệt tận, cắt đứt không còn manh mún nào sót lại: sự ưu ái và đãi ngộ từ cơ chế hiện hữu, sự dung dưỡng với nương tựa nhau để hai bên – nhà văn và cơ chế – cùng có lợi. Cắt đứt cả truyền thống văn hóa văn chương từng chế ngự tâm thức nhà văn, tâm thức tạo nên thứ tâm lí bầy đàn hãi sợ sự cô đơn, chạy trốn tinh thần độc lập và cả mài mòn cá tính sáng tạo.

Chỉ dũng cảm cắt đứt như thế thôi, nhà văn mới có cơ may tiếp cận và khám phá được hiện thực “như thực”, để qua chữ nghĩa của mình, hắn có thể phơi mở trọn vẹn cái hiện thực vừa được thức nhận sâu thẳm kia.

Và cũng có nghĩa là – sáng tạo.

Sài Gòn, 17-7-2011

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *