Inrasara, như một Chăm thu nhỏ


Trịnh Hải Yến thực hiện

 

PV: Với bộ ba Văn học Chăm, khái luận – văn tuyển, anh đã phục dựng được một lâu đài văn chương Chăm tưởng đã thất truyền và chìm vào quên lãng. Đó là một kì công. Anh có thể phác họa các nét chính yếu nhất của nền văn học ấy không, thưa anh?

Inrasara: Dân tộc Chăm có chữ viết từ thế kỉ thứ IV. Có chữ viết sớm như thế, thì văn học viết của dân tộc đó phát triển là chuyện đương nhiên. Khi văn hóa Chăm chưa trải qua kĩ thuật in ấn, hơn nữa – qua biến chuyển của thời cuộc, chúng bị mất mát rất nhiều. Sau hơn hai mươi năm sưu tầm – nghiên cứu, tôi cố gắng phác họa nét khái quát nhất, để người đọc quan tâm có cái nhìn tổng thể về văn học dân tộc này.

Bên cạnh văn chương bia kí, có thể kể 5 sử thi, mươi trường ca thế sự, 7 trường ca trữ tình, 3 gia huấn ca, thơ triết lí,… Ngoài ra, cũng như bao dân tộc khác, Chăm cũng đã sở hữu các thể loại ca dao, đồng dao, câu đố, các thể loại hát dân gian khác,…

Bộ ba Văn học Chăm, khái luận – văn tuyển được xuất bản năm 1994-1995 chỉ ý định cũng cấp cho độc giả cái nhìn khái quát nhất. Vài năm qua, tôi đang tiến hành bộ “Tủ sách văn học Chăm” gồm 10 tập với gần 5.000 trang (đã in 4 tập). Khi đó văn học Chăm sẽ hiện thể rõ nét và tương đối toàn diện hơn.

PV: Sinh ra bên dòng sông Lu, sống giữa lòng văn hóa Chăm đặc sắc đã chìm vào quên lãng, trong khi mọi người đang đổ xô vào tìm cái mới ở thời đại tốc độ này, nguyên nhân nào thúc đẩy anh lãng phí cả thời thành xuân để làm công cuộc nặng nhọc ấy?

Inrasara: Say mê văn chương – ngôn ngữ, nen yêu văn chương dân tộc mình không là chuyện lạ. Cạnh đó, làm như để trả ơn nền văn hóa đã nuôi sống dưỡng dục tôi. Dẫu sao ở đó bao nhiêu là cái độc đáo có thể cống hiến cho nên văn học đa dân tộc Việt Nam. Nhưng thử lướt qua mấy công trình văn học sử Việt Nam thế kỉ qua, đâu là chương nói về văn học Chăm? – Không gì cả, thậm chí không dòng nào cả.

Như vậy, đâu là tính toàn vẹn của văn học Việt Nam, như Nguyễn Phạm Hùng đặt ra?

Văn chương không chủ ở số lượng. Nếu bạn góp thêm một Akayet Dewa Mưno (sử thi) hay một Ariya Glơng Anak (trường ca) mới vào thì văn chương Chăm chẳng vì thế mà mập lên. Và Chăm, nếu dân tộc này có thêm một Truyện Kiều hay một Hồ Xuân Hương mới, nó chẳng có tác động tích cực nào đến phát triển văn học Việt Nam cả!

Vấn đề là cái KHÁC. Vậy Chăm có cái gì khác?

Không kể các trường ca triết lí như Ariya Nau Ikak (Thơ đi buôn) hay các trường ca thế sự như Ariya Ppo Parơng, vân vân rất độc đáo; riêng về hình thức: Ariya – lục bát Chăm chẳng hạn. Đây là thể thơ như lục bát Việt, nhưng nó linh hoạt trong cấu trúc hơn, nên khả năng sáng tạo lớn hơn. Đừng nói ai có trước hay ai vay mượn ai, trong khoảng mù mờ của lịch sử. Ariya [lục bát] Chăm có đó, làm phong phú nền văn học Chăm và Việt. Bởi cấu trúc ngôn ngữ khác nhau (đa âm tiết/ đơn âm tiết là một trong những), nên lối phát triển hai dòng thơ đã có khác biệt nhất định.

Về nội dung và đề tài: 250 minh văn Champa được sáng tác từ thế kỉ III đến thế kỉ thứ XV bằng cả tiếng Phạn lẫn tiếng Chăm cổ là cái được kể đầu tiên. Đây là điều mà lịch sử văn học Việt Nam chưa hề có. Năm Sử thi – Akayet Chăm có xuất xứ từ/ mang âm hưởng Mã Lai/ Ấn Độ được viết vào thế kỉ XVI – XVIII, là sáng tác thành văn đặc trưng Chăm, một hiện tượng không có trong văn học sử Việt Nam. Nữa, Chăm có bốn sử thi nổi tiếng; nhưng khác với các dân tộc anh em ở Tây nguyên như Êđê hay Bana,… sử thi Chăm đã được văn bản hóa từ thế kỉ XVI. Ba Trường ca – Ariya trữ tình nổi tiếng mà nội dung mang chở sự đối kháng quyết liệt giữa Hồi giáo – Bàlamôn giáo dẫn đến đổ vỡ và cái chết, cũng là một dị biệt khác. Vân vân…

PV: Chắc chắn trong quá trình sưu tầm và tìm hiểu, anh không tránh khỏi những khó khăn. Thách thức lớn nhất với anh là gì, thưa anh?

Inrasara: Khó khăn trở ngại thì nhiều, kể sao cho hết. Mà kể làm gì cơ chứ, phải không? Chăm sống không tập trung ở hơn mười tỉnh thành khác nhau, tác phẩm văn chương thì tồn tại qua các bản chép tay, mỗi nơi, mỗi gru chép mỗi khác, còn các ấn phẩm trước đó thì còn sơ lược; tôi đã phải mày mò đọc từng dòng chữ sưu tầm được, qua từng làng để hỏi từng gru nhiều lối viết chữ khác nhau,… Nhưng có lẽ thách thức lớn lao nhất tôi là phải thường trực chống lại sự ngã lòng bỏ cuộc trước mục tiêu hun hút xa. May mắn thay, lòng yêu thương và sự ngây thơ của tuổi trẻ đã cứu vớt tôi.

PV: Độc giả chẳng những biết đến Inrasara là nhà nghiên cứu văn chương – ngôn ngữ Chăm, hơn nữa anh còn là nhà thơ sáng tác bằng hai thứ tiếng: Việt và Chăm. Làm thế nào anh có thể suy nghĩ cùng lúc qua hai ngôn ngữ có cấu trúc khá khác biệt này?

Inrasara: Tôi làm thơ từ khá sớm, từ 14-15 tuổi, cả tiếng Chăm lẫn tiếng Việt. Sáng tác tiếng Chăm sau đó dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại. Không vấn đề gì cả. Viết và để vậy thôi, tôi hoàn toàn không ý định in các sáng tác của mình. Tập thơ đầu tay Tháp nắng ra đời được do một cơ duyên rất ngẫu nhĩ. Thơ tiếng Chăm của tôi sau hơn phần tư thế kỉ kiểm lại cũng non hai trăm bài và ba trường ca, trong đó chỉ một phần rất nhỏ được phổ biến, còn lại tôi vẫn giú chúng trong vòng vô danh. Chúng đang chờ đợi một cơ duyên nào khác.

PV: Một đoạn thơ tạo ấn tượng rất mạnh:

“Không ít bạn trách tôi mất thì giờ cho thơ tiếng Chăm

Có bao nhiêu kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?

Nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó

dù chỉ còn dăm ba người

dù chỉ còn một người

hay ngay cả chẳng còn ai”

Tiếng Chăm là một tiếng xa lạ với người đọc phổ thông nói chung, đặc biệt là thơ tiếng Chăm. “Quyết tâm” đi ngược lại thời đại như thế, hẳn anh nghĩ mình đang làm công việc cấp thiết nào đó. Anh có thể lí giải rõ hơn…

Inrasara: Thi sĩ là kẻ canh giữ ngôn ngữ dân tộc. Nếu bạn không gánh nổi bổn phận này, bạn thôi còn là thi sĩ. Chấm hết. Hôm nay ngôn ngữ Chăm đang lai căn và thất tán khắp nơi. Nhìn đâu cũng thấy “nghĩa trang chữ”. Tiếng Chăm đang giẫy chết, và sở hữu chủ của nó đang chôn sống nó, hằng ngày. Nhanh hơn, rộng khắp hơn. Tôi muốn lưu giữ chúng trong thi ca. Không chỉ cho riêng tôi, mà cho cả những con người còn yêu thương tiếng Chăm.

Nhưng lẽ nào cứ nói đến thơ văn Chăm là chỉ có mỗi Inrasara! Bao nhiêu tài năng Chăm đang khuất sau bóng tối vô danh. Chưa có đất cho cỏ mọc. Tôi tự cho phép mình tạo ra mảnh đất đó. Tôi và vài trí thức Chăm đã làm được…

PV: Thế là Tagalau, tuyển tập sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu văn hóa Chăm ra đời. Nó vừa bước sang tuổi thứ 10. Mười năm không phải ngắn cũng không phải dài, với những buồn vui, biến động. Tagalau đã khơi thông dòng chảy văn hóa Chăm vốn đã nghẽn mạch từ lâu. Trong 10 năm ấy, Sara thấy mình đã làm được gì và điều gì còn mắc nợ.

Inrasara: Nhiều khuôn mặt tài năng xuất hiện: Trà Vigia, Jalau Anưk, Trầm Ngọc Lan, Bá Minh Trí, Huy Tuấn, Tuệ Nguyên, Thạch Giáng Hạ,… bao nhiêu bài viết về văn hóa xã hội Chăm giá trị được công bố, hàng chục tác phẩm cổ điển Chăm được sưu tầm và dịch ra tiếng phổ thông trình làng. Tagalau đã đến tay đồng bào vào mỗi mùa Kate hay Ramưwan,… Bà con nồng nhiệt đón nhận nó, chờ đợi nó trong thắc thỏm. Và khi có nó trong tay, họ vỡ òa niềm vui rằng Tagalau vẫn còn sống!

Nuôi sống được Tagalau là chuyện thiên nan vạn nan, bởi người Chăm sống rải rác nhiều vùng miền khác nhau, trở ngại về cảm thông lòng người, về chênh lệch phông văn hóa, về phát hành và in ấn, thiếu chuyên gia, và cả về kinh phí nữa,…

PV: Chăm đau khổ, kiêu hãnh và bí ẩn. Phải chăng cuộc đời Inrasara chính là cuộc đời Chăm thu nhỏ. Một Sara đầy đau khổ kiêu hãnh và bí ẩn. Sara nghĩ sao về nhận định mang tính khái quát này?

Inrasara: Không nghĩ gì cả! Tôi có tiểu luận “Chăm, đau khổ, kiêu hãnh và bí ẩn”. Đúng. Thế giới đã nói nhiều về bí ẩn của kĩ thuật xây tháp Chàm. Làm thế nào các viên gạch chồng khít và gắn kết vào nhau mà không cần lớp vữa, đến nỗi đập vỡ còn dễ hơn tách hai miếng gạch? Tại sao gạch Chăm không bị mốc sau hàng ngàn năm, trong khi các viên mới tháp vào chưa tới chục năm đã bị rêu bám?

Các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập về huyền thoại loại giếng vuông Chăm còn phơi mặt dọc duyên hải miền Trung nắng hạn nhưng không bao giờ khô nước, về gốm Bàu Trúc – một trong vài làng mà kĩ thuật chế tác và nung gốm cổ sơ nhất Đông Nam Á còn tồn tại dai dẳng, về vị vua đầu tiên của Đông Nam Á thuộc Ấn Độ giáo – vua Gangaraja ở đầu thế kỉ thứ V, vừa lên ngôi đã nhường lại ngai vàng cho cháu, để làm cuộc vượt đại dương sang bờ sông Hằng… Người ta đã nói nhiều về chúng, tốn bao giấy mực lí giải sự ra đời và biến mất của chúng – những bí ẩn Chăm xa xưa với bao nhiêu kỉ lục. Tôi thì khác, tôi muốn kể câu chuyện về những huyền bí của đời sống Chăm hiện đại. Chăm đương sống cuộc sống kì diệu của ngày hôm nay. Chuyện kể này sẽ được lộ bày qua tiểu thuyết tự sự đang in: Hàng mã kí ức.

 

PV: Sứ mệnh của thi sỹ là canh thức và kể lại các câu chuyện xuyên thế hệ. Có bao giờ Sara thấy mình đã làm đủ cho sứ mệnh ấy? Và trong bài “Lịch sử và tự sự hay Để hiểu Chân dung Cát”, anh có nêu một câu nói của Tù trưởng thổ dân da đỏ trả lời đại diện chính quyền địa phương Canada: “Nếu đất đai là của quý ngài thì quý ngài có câu chuyện nào kể lại cho chúng tôi nghe không”. Vậy còn quý ngài Inrasara, quý ngài đang làm chủ mảnh đất văn chương, linh hồn, từ điển sống của văn hóa Chăm, ngài có câu chuyện nào về mình để kể cho chúng tôi nghe không?

Inrasara: Tôi thằng Klu nhỏ sinh ra trong một gia đình nghèo ở một làng Chăm nghèo tại một tỉnh nghèo nhất trong một đất nước nghèo đang bị chiến tranh tàn phá. Tâm hồn hắn được nuôi nấng qua bao truyền thuyết ông ngoại hắn kể, về ma Hời sờ soạng dắt nhau đi, về vương quốc Champa hùng mạnh một thời, về các nàng tiên bí ẩn và thánh thiện,… Tuổi thanh xuân thay vì đốt tuổi đời qua khói thuốc lá hay chuyện gẫu, hắn làm phong nhiêu đời mình bằng lang thang qua các làng Chăm tìm chép các trang sách cổ, lượm nhặt từng dòng ca dao, từng câu tục ngữ. Rồi hắn đến với văn chương và ngôn ngữ, cả triết học nữa. Vào Đại học để bỏ Đại học. Công tác tại Ban biên soạn sách chữ Chăm 4 năm rồi bỏ. Làm việc tại Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh 6 năm lại thôi. Cũng có làm kinh doanh, nông dân, thú y, câu cá, mở quán cà phê,… Nhưng rồi luôn buông bỏ, từ bỏ, cắt đứt. Để được tự do sáng tạo. Đi, đọc, suy tư và viết.

Bao nhiêu tác phẩm ra đời, chỉ như dấu vết rơi lại dọc con đường khai phá và sáng tạo. Chúng không là thành tựu, càng không là sự nghiệp để mà kiêu hãnh hay kể công.

Đầy tràn công danh sự nghiệp

nhưng con người cư lưu đầy thơ mộng trên mặt đất này

Full of merit,

yet poetically, man dwells on this earth.

(Hoelderlin)

 

Khi tôi nhận biết ra tôi là Chăm sinh ra tại Caklaing trong đất nước Việt Nam cư lưu giữa hai thế kỉ XX và thế kỉ XXI, tôi chấp nhận định phận tôi, từ đó tôi dự phóng và hành động trong chân trời khả thể. Tôi nghiên cứu văn chương và ngôn ngữ Chăm, sáng tác thơ tiếng Việt và tiếng Chăm, phê bình trong nỗ lực khai mở vùng đất cho nhiều trào lưu thơ ca cùng tồn tại và phát triển. Dù vô nghĩa, và vô ích – trong vô cùng tháng năm giữa mênh mông vũ trụ này. Hiểu sâu thẳm thế, nhưng tôi vẫn nỗ lực hết mình. Và vui thú.

Lối nói hành động trong chân trời khả thể chính là cư lưu thơ mộng đó. Một cư lưu đầy trách nhiệm nhưng vẫn sẵn sang lên đường đi mất.

“Cho và đi. Cho và đi mất về biển xa”.

PV: Sara tự do, ngẫu hứng, không chủ đích, dung dị đời thường, viết văn để quên văn… Có bao giờ anh quên mất mình là người con Chăm để có thể tự do bay đến những vùng đất văn hóa mới?

Inrasara: Không. Tôi vẫn là Chăm, dù tôi có bay cao bay xa hay trôi giạt tới những đâu đi nữa. Tôi mãi mãi dính cuốn rốn của tôi vào mảnh đất Caklaing – Ninh Thuận đầy nắng gió và tràn yêu thương này. Nó chính là nguồn năng lượng vô tận nuôi sống tâm hồn và sáng tạo tôi. Tinh thần Chăm giáp mặt bao nhiêu chân trời mới – hoàn toàn vô ngại. Không có gì đối kháng hay mâu thuẫn cả. Tôi đã từng nung chúng và dung hóa chúng trong tận thẳm sâu tâm hồn tôi. Nó làm giàu sang linh hồn tôi và tôi làm giàu sang cho nó.

PV: Inrasara “thi sỹ trong câu thơ học giả trong bài thơ, triết nhân trong tập thơ, con người lúc nào cũng phản phất hình bóng của những ngọn tháp Chăm, linh hồn Chăm. Một người tiên phong phục dựng nền văn hóa Chăm và đưa nên văn hóa ấy hòa nhập với văn hóa của cộng đồng đa dân tộc Việt Nam. Anh nghĩ sao về nhân định mà báo Người Hà Nội đã phác họa về anh?

Inrasara: Tôi hiếm khi nhận định về các nhận đình về tôi hay thơ tôi. Hãy mở cho nhiều chiều nhìn cùng vận động, biết đâu ta sẽ hiểu ta hơn chút ít.

PV: Còn riêng mình, nếu khắc họa chân dung môt Sara đời thường, Sara sẽ vẽ mình thế nào?

Inrasara: Yêu triết lí và say mê âm vang của lời. Ham chơi, ham thưởng thức nghệ thuật và cái đẹp của cuộc đời (bóng đá, hội họa,…)  nhưng cũng yêu công việc. Dậy từ 4 giờ sáng, viết liên tục cho đến 7 giờ. Cà phê và ăn sáng. Làm việc tiếp cho đến khi… mệt mới thôi. Nghỉ trưa đúng 15 phút, sau đó viết hay đọc đến 4 giờ chiều. Hết giờ làm việc là cà phê hay lai rai một mình là thú vị nhất. Tại đó, tôi ghi chép các tứ thơ, các ý nghĩ vụt đến vào tờ giấy nhỏ thủ sẵn ở túi áo. Tôi làm thơ có kế hoạch, chứ không ngẫu hứng. Tờ giấy này là rất lợi hại! 9 giờ tối là lên giường. Hệt trẻ con – tôi dễ ngủ. Ngủ ngon và sâu, để ngày mai tiếp tục…

Mỗi tháng về quê một lần hay đi các nơi nói chuyện về thơ Việt đương đại, dĩ nhiên nếu có chỗ mời. Làm thơ viết văn là chính. Hết hứng thì chuyển sang phê bình. Kẹt phê bình thì nghiên cứu hay dịch. Nghĩa là tôi có thể xoay tua các thể loại mà không sợ bế tắc sáng tạo. Nếu có bế tắc chăng nữa thì về quê nạp năng lượng tiếp…

PV: Xin hỏi câu hỏi cuối: Trong các công trình nghiên cứu tìm hiểu về văn hóa Chăm anh thấy mình làm được gì, chưa làm được gì, cống hiến được gì cho văn hóa dân tộc Việt Nam?

Inrasara: Nếu gọi là kể công, ngoài Tagalau là công lao chung của trí thức và bà con Chăm, Văn học Chăm là đáng kể nhất. Nó cống hiến vào nền văn học đa dân tộc Việt Nam một khuôn mặt rất sáng giá. Nhưng điều đau đáu hơn cả với tôi chính là tiếng Chăm, ngôn ngữ sống. Nó đang bị lãng quên và rơi rụng, ngày càng nhiều và nhanh. Tôi phải chiến đấu từng tấc đất để giành lại chúng, giành đất sống cho chúng. Việc làm ngày mai của tôi có lẽ chỉ có vậy.

PV: Được biết anh đang trong quá trình tu sửa ngôi nhà của mình tại quê Caklaing thành Nhà Trưng bày Văn hóa Chăm và Thư viện cho cộng đồng Chăm. Anh đặt hi vọng gì vào công việc tưởng vô ích này?

Inrasara: Đấy cũng là một cách khiêm tốn cứu vãn nền văn hóa dân tộc. Bên cạnh tạo cơ hội cho bà con anh chị em Chăm tiếp cận với sách báo sau giờ nông nhàn, ít nhiều biết quá khứ và hiện tại, dân tộc và thế giới; qua đó muốn gây sự chú ý từ các cộng đồng ngoài Chăm về vùng đất văn hóa này. Nhưng trên hết, nó vẫn mong tìm thấy nhân tố mới cho cộng đồng và cho đất nước ở thì tương lai.

Sài Gòn, 29-9-2009.

 

 

4 thoughts on “Inrasara, như một Chăm thu nhỏ

  1. Duyên đến, Qua Inrasara tôi bắt đầu tìm hiểu về dân tộc Chăm, cảm thấy mình phong phú hơn trong tâm hồn. Từ lúc bắt đầu với website này, đến hiện nay tôi cảm thấy như có XX% Chăm trong dòng máu Việt của mình???

    Tôi muốn giao lưu học hỏi trước hết cho mình và nếu được làm phong phú thêm cho chúng ta! Cộng thêm học Chăm mình biết vui chơi cả những vấn đề gọi là hệ trọng.

    Thông qua bài này tôi chủ động học theo cách của mình (thông cảm về thời gian) nếu có thiếu sót mong góp ý! Vì hơi lan man.
    ————————————————

    Inra – Như vậy, đâu là tính toàn vẹn của văn học Việt Nam, như Nguyễn Phạm Hùng đặt ra?……………
    Vấn đề là cái KHÁC. Vậy Chăm có cái gì khác?
    ………………………………….
    Lịch sử là vận động của tạo hóa, dù là gì không phán xét được ở cỏi người, nó có cái lí trời đất và cuối cùng vẫn là mục đích tiến hóa đưa con người (vưu vật của Thượng đế) đạt niềm vui chân thực ở mọi cấp độ.

    Tôi cảm khái tính toàn vẹn của Việt Nam hình chử S, TIẾN HÓA là sự hòa nhập Việt – Chăm trong sự thăng hoa và đã đến lúc cái khác TINH HOA Chăm phát huy tiềm năng xứng tầm của mình trong hòa nhập.
    Mỗi dân tộc trên thế giới đều có cái hồn của riêng mình, tùy từng giai đoạn mà vượng – suy.
    ________________________________________________________

    Inra: Thi sĩ là kẻ canh giữ ngôn ngữ dân tộc. Nếu bạn không gánh nổi bổn phận này, bạn thôi còn là thi sĩ.
    …………………………………………
    Thi sĩ khác nhà thơ ở tầm sáng tạo, cốt cách riêng như là tiên tri thấu thị —> Anh Inra là Thi sĩ dân tộc Chăm và hơn thế???
    ———————————————————-
    Inra: Nhưng lẽ nào cứ nói đến thơ văn Chăm là chỉ có mỗi Inrasara! Bao nhiêu tài năng Chăm đang khuất sau bóng tối vô danh. Chưa có đất cho cỏ mọc. Tôi tự cho phép mình tạo ra mảnh đất đó. Tôi và vài trí thức Chăm đã làm được…
    ………………………………………………..
    Sứ mạng phát triển hồn thiêng dân tộc qua ngôn ngữ nghệ thuật (đặc thù tộc Chăm)???
    ———————————————————————–
    Inra: “Chăm, đau khổ, kiêu hãnh và bí ẩn”
    ……………………………………….
    Qua đau khổ (lịch sử)–> hũy diệt để sáng tạo (tái sinh – tinh thần Shiva) nằm trong sự kiêu hãnh và bí ẩn là quy luật siêu đặc biệt của hồn thiêng Chămpa?????
    —————————————————
    Inra: về vị vua đầu tiên của Đông Nam Á thuộc Ấn Độ giáo – vua Gangaraja ở đầu thế kỉ thứ V, vừa lên ngôi đã nhường lại ngai vàng cho cháu, để làm cuộc vượt đại dương sang bờ sông Hằng…
    ……………………………………………
    Bản thân mong rõ hơn thông tin về vị vua đầu tiên này, quá đặc biệt, đầy bí ẩn với tầm siêu vượt….???
    ———————————————-

    Inra: Bao nhiêu tác phẩm ra đời, chỉ như dấu vết rơi lại dọc con đường khai phá và sáng tạo. Chúng không là thành tựu, càng không là sự nghiệp để mà kiêu hãnh hay kể công.
    ……………………………………………..
    Có những CON NGƯỜI sống là ngao du, hòa nhập trời đất trong cuộc chơi đầy NIỀM VUI chân thực. Cụ thể, trên đường đời việc gì phải chăm chăm vào mục đích B, quãng đường từ A–>B đầy hoa thơm trái ngọt sao ta để mất đi trong hành trình mỗi kiếp người,để sống trong sự khô héo của tâm hồn????
    ————————————————————–
    Inra: Đầy tràn công danh sự nghiệp
    nhưng con người cư lưu đầy thơ mộng trên mặt đất này
    ………………………………………….
    Vấn nạn của con người văn minh hiện đại trong sự rơi về, nếu có thể chỉ mãi mãi trong vòng ảo giác của ngộ nhận dù là tuyệt vời hay thơ mộng???
    ——————————————————-

    Inra: phê bình trong nỗ lực khai mở vùng đất cho nhiều trào lưu thơ ca cùng tồn tại và phát triển. Dù vô nghĩa, và vô ích – trong vô cùng tháng năm giữa mênh mông vũ trụ này. Hiểu sâu thẳm thế, nhưng tôi vẫn nỗ lực hết mình. Và vui thú.
    ……………………
    Phải ganh tỵ với Inra thôi! Mà cũng thật vô lí khi hiểu rằng “không ai có thể hát thay cho chúng ta” và mối một sinh linh đều có chương trình riêng của định phận tràn đầy quan hệ nhưng lại riêng tư.
    ——————————————————
    Inra: Lối nói hành động trong chân trời khả thể chính là cư lưu thơ mộng đó. Một cư lưu đầy trách nhiệm nhưng vẫn sẵn sàng lên đường đi mất.

    “Cho và đi. Cho và đi mất về biển xa”.

    Nếu có bế tắc chăng nữa thì về quê nạp năng lượng tiếp…
    …………………………..
    Nhạc sĩ TCS: Sống ở trên đời cần có một tấm lòng, để làm gì?–> để gió cuốn đi, cuốn đi….. thật vui vẻ trong vòng cuốn cuộc đời dù được hay mất, còn cho đi??? (phải lấy lại gì??? – niềm vui à!)- được như vậy là hơi bị khó đấy!

    Tôi có lẫn thẫn không? Mong các bạn góp vui với sự thành thực này trong dòng ý tưởng.

    Còn Sư huynh Inra nếu không bận giúp thêm tiểu đệ vài điều để khai mở….!!!

  2. Tấm bia tìm thấy ở Mĩ Sơn ca ngợi sự kiện vua Prakacadharma Vikrantavaman cúng dường cho thánh Icanecvara Cambhubhadrecvara và Prabhacecvara viết: “Có ông vua tên là Gangaraja đầy đức độ, với kiến văn uyên thâm và lòng dũng cảm được coi là đức tính của nhà vua. Vương quyền khó mà từ bỏ, nhưng ngài tự nhủ: Trông thấy sông Hằng là một niềm vui lớn và ngài đi từ đây tới sông Hằng”. Vào thời đó, đại dương còn đầy bí hiểm dọa nạt, rất ít thủy thủ dám đi như vậy, các vị vua lại càng hiếm hơn nữa. Trong số vị vua ở Đông Nam Á tên tuổi còn lưu lại, theo chỗ chúng tôi biết, đây là vị vua duy nhất đã làm cuộc vượt biển đó. Cái cách mà con cháu ngài lấy làm kiêu hãnh về ngài chứng tỏ chưa có ai bắt chước ngài, sau đó. Do đó chúng tôi có thể khẳng định mà không sợ nhầm rằng Địch Chân của người Trung Quốc “đi sang Ấn Độ” và Gangaraja trong bi ki đã “đi từ đây sang sông Hằng” chỉ là một người mà thôi.
    (G. Maspéro, Le Royaume du Champa, Van Dest, Paris, 1928, p. 65)

  3. Chào anh Inrasara…….
    Xin phép được gọi bằng “anh” như một cách xưng hô đầy trân trọng và thân thiện. Em là một nhà nghiên cứu trẻ, mới chập chững bước vào công việc nghiên cứu của mình. Em say mê nghiên cứu lịch sử và văn hóa của các cư dân cổ ở Đông Nam Á trong đó văn hóa Chăm và con người Chăm luôn làm em say mê. Và bằng con đường nghiên cứu ấy đã rất nhiều lần dẫn em đến những tác phẩm của anh hay những bài viết về anh. Em yêu vô cùng cái chất Chăm trong đó. Anh đúng như đất nước và con người Chăm thu nhỏ thật. Đọc những tác phẩm của anh, lắng nghe những điều anh trần tình và chia sẻ về quê hương, về dân tộc mình, cảm giác như nghe được tiếng vọng từ ngàn xưa của một thời kì đầy vàng son – một Champa đầy kiêu hảnh và bí ẩn.
    Ước một lần được hội ngộ cùng anh để được nhìn thấy tận mắt một bức tranh Chăm thu nhỏ như thế nào.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *