Văn học Đông Nam Á trong tâm thế hậu thuộc địa

Bài viết đã được sửa lại ngày 20-9-2009, để chuẩn bị in trong tập tiểu luận – phê bình: Thơ như là con đường.
*
1. Không chỉ Việt Nam, văn học Đông Nam Á đang ở vị trí rất khiêm tốn so với văn học nhiều nước trên thế giới. Hai thập niên đầy sôi động, chỉ tính Giải Nobel văn chương thôi, trong lúc các nền văn học [lâu nay bị cho là] ngoại vi the peripheral literature khắp nơi đang nỗ lực giành và giành được bao thành tích chói lọi. Từ châu Phi, châu Mĩ La tinh cho đến châu Á. Hay sát cạnh ta: Nhật Bản, với những tên tuổi Yasunary Kawabata, Kenzaburo Oe, Haruki Murakami. Như thể một cách thế giải trung tâm ngoạn mục, thì Đông Nam Á cứ đứng nhìn, như là kẻ ngoài cuộc.
Hãy bỏ qua bề tối hay vết xước của nó, nhìn lướt Giải Nobel văn chương, tác phẩm của các nhà đoạt giải sáng giá, dù khó phân biệt rạch ròi, luôn hội được một/ một vài hoặc tất cả yếu tố. Đó là:
Nhà văn nêu lên được tinh thần cốt tủy của con người thời đại họ sống: Albert Camus. E. Hemingway, S. Beckett,… Họ bắt trúng mạch, tìm lối viết thích hợp, đẩy vấn đề đến cùng và mở rộng nó tối đa. Hoặc họ tiếp nhận, triển khai tư tưởng mới, độc đáo tác động nhiều chiều đến tinh thần con người. Tư tưởng đó được thể hiện qua nhiều thể loại và bằng nhiều cách thức khác nhau. Hoạt động chữ nghĩa của J-P. Sartre là rất điển hình. Hay như những A. Solzhenitsyn, O. Pamuk,… nói lên vấn đề lớn của dân tộc, đất nước mình, rộng ra – thời đại mình, không kiêng nể hay hãi sợ. Họ chấp nhận trả giá. Hoặc khám phá lối thể hiện mới ảnh hưởng đến lối viết của người cùng thời hay thế hệ sau: W. Faulkner, G. Márquez,…
Đó là chưa kể các nhà văn không đoạt giải nhưng tác phẩm có tác động lớn đến văn học và tư tưởng thời đại: Leon Tolstoy, James Joyce, R.M. Rilke, F. Kafka, Marcel Proust, T.E. Eliot, Erza Pound, Vladimir Nabokov, Jorge Luis Borges, W.H. Auden, S. Rushdie…
Ở Việt Nam, có nhà văn nào làm được như thế?

2. Chuyện xửa xưa, văn học Đông Nam Á ngàn năm sống đời hạng hai và phái sinh hẩm hiu. Văn chương nôm na bản ngữ dù đồng hành với văn chương bác học được viết bằng ngôn ngữ “quý tộc”: Pali, Sanskrit hay Hán, nhưng luôn chịu phận lép và bị chính người bản địa xem thường. Mặc dù vài dân tộc có chữ viết khá sớm (như Champa chẳng hạn, bia Đông Yên Châu xuất hiện từ cuối thế kỉ thứ tư) nhưng mãi đến cuối thế kỉ thứ mười, người viết Đông Nam Á mới sử dụng nó vào sáng tác văn chương. Để chỉ từ thế kỉ mười bảy trở đi, nền văn học khu vực này mới cho ra đời các tác phẩm xuất sắc viết bằng chữ bản địa.
Nhưng định mệnh vẫn chưa thôi chơi khăm chúng ta. Vừa thoát khỏi nền văn học song ngữ đầy mặc cảm được vài trăm năm, văn học còn non trẻ này bị đánh tiếp đòn phủ đầu, khi văn học châu Âu sau đó là Mĩ, Nga tràn vào Đông Nam Á. Những cái bóng khổng lồ của bao nhiêu tên tuổi thi bá, văn hào, triết gia ngoại hạng làm ta choáng ngợp. Ta say sưa lao vào nghiên cứu, dịch thuật, học tập, bắt chước nhưng cạnh đó, bởi lòng tự tôn và tự ái dân tộc, không ít bộ phận sợ hãi, xa lánh và chống báng trước sức ảnh hưởng lấn áp của nền văn học và triết học xa lạ kia. Vọng ngoại và bài ngoại cứ là tồn tại song trùng trong tâm thức dân tộc Đông Nam Á(1).
Thế nào đi nữa, ta cũng đã có vài thành tựu. Thành tựu đến đâu đi nữa, ta vẫn cứ bị coi là ngoại vi. Người ngoài coi ta ngoại vi, đã đành. Chính ta tự coi mình và coi nhau như thế! Mặc cảm hậu thuộc địa còn trì nặng nơi tâm thức sáng tạo của mỗi người viết Đông Nam Á. Viết trong niềm mặc cảm hậu thuộc địa, thì nhà văn có thể đẻ ra tác phẩm lớn không?

3. Để vươn đến “tầm Nobel”, Việt Nam đã và đang chuẩn bị gì? – Rất ít, nếu không nói là chưa gì cả! Thử nhìn quanh xã hội nơi ta sống…
Mở mắt chào đời, ta thấy cha mẹ, anh chị, thấy cô bác, anh họ chị họ, ông bà họ nội ngoại, dì dượng gần xa, vô thiên lủng… Được thôi, nhưng dường tất cả sẵn sàng chỉ tay khuơ khoắng cháu nên thế này với mầy không được thế nọ đầy quyền uy, đe nạt. Từ bé thơ, tôi phải cắn răng chịu nhận bao nhiêu cái đét đít từ bàn tay một ông cậu bá vơ nào đó, không thể cãi. Ngó quanh, không một ai tỏ vẻ bênh vực tôi cả. Người lớn bảo thì phải nghe – vừa tập tò nhận thức, tôi luôn phải nghe câu đó. Lắng nghe và làm theo. Truyền thống gia đình Việt Nam trọng tình khinh lí đè nặng tâm hồn cá thể từ bao đời chưa có dấu hiệu chấm dứt. Có cha mẹ nào răn dạy con cắt đứt với mấy dây nhợ chừng chịt đó không? Có tấm gương chú bác nào soi sáng con cháu dấn bước trên con đường chinh phục đỉnh cao? Gia đình nào của Việt Nam tạo môi trường hay chuẩn bị đầy đủ điều kiện thiết yếu cho thiên tài tương lai ở khởi đầu cuộc viết? Từ “tứ đức tam tòng” hay “quân sư phụ” xa xưa cho đến nỗi “hi sinh đời bố củng cố đời con” của thời hiện đại, nó cứ thế. Nề nếp gia phong luôn được đặt lên hàng đầu, trói buộc tiềm năng sáng tạo của cá nhân. Nếu có gì thêm, thì chỉ như một tiếp nối nếp nhà, chứ không đi ngược lại hay phá hủy nó để làm ra cái mới lạ. Truyền thống gia đình dạy con cháu yêu quý nâng niu sự ổn định hơn là đam mê tinh thần mạo hiểm khai phá. Từ đó, cá nhân sớm hài lòng với thành quả nhỏ bé đạt được hơn là theo đuổi mục đích to lớn tối hậu. Tôi đã dở khóc dở cười khi cô bạn thơ tâm sự vừa viết thư cho cha “con đã trả xong nợ cho gia đình”, khi cầm trên tay tấm thẻ Hội viện Hội Nhà văn Việt Nam! Sẽ không bao giờ có sự phá cách, nói chi đến một phiêu lưu [tư tưởng] mang tính đột phá táo bạo nào sẽ xảy ra, ở đó.
Gia đình đã vậy, nhà trường cũng chẳng hơn. Chưa vội đề cập đến việc trang bị cơ sở vật chất tiên tiến nhất sẵn sàng cho phát kiến khoa học, ngay nhà văn chỉ cần một cây viết, một tập giấy trắng và… một đầu óc tư duy độc lập thôi, ta vẫn chưa. Thực tế, môn triết học – được cho là môn học nền tảng của mọi nền tảng giúp con người suy nghiệm cuộc sống chiều sâu – đến hôm nay vẫn chưa có mặt nghiêm túc trong các Đại học Việt Nam. Không có truyền thống triết học, ta cũng chưa sẵn sàng cho truyền thống đó.
Mục đích của nhà trường là đào tạo con người tiêu chuẩn, đâu cũng thế. Riêng Việt Nam, ta còn đẩy món tiêu chuẩn kia đi đến đầu mút của con người đóng hộp, bằng hệ thống và chính sách giáo dục theo-ism. Theo-ism từ “thuật nhi bất tác”, “Tử viết” suốt ngàn năm, theo-ism bám ta đến tận hôm nay. Cơ chế đó, sinh viên có làm ngược, làm khác ý thầy, tư duy khác chương trình sách giáo khoa dạy mới là chuyện lạ.
Ngồi giảng đường, giảng viên không khuyến khích sinh viên suy tư độc lập, thì làm gì hi vọng sau đó họ phát kiến í tưởng mới lạ, liều lĩnh khai phá lối viết mới mẻ, dám thể hiện mình (không phải thể hiện cái tôi chủ quan èo uột hay lớn lối như đã) mà không ngại thất bại? Khía cạnh này, hãy nghĩ đến A. Breton hay Alain Robbe-Grillet. Đây là rào cản vững chãi và ngoan cố nhất chúng ta tự dựng lên ngay trong nhà mình.
Câu chuyện. Thuở sinh viên năm nhất khoa Anh Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, giờ ngữ pháp tập đặt câu “Bởi vì… cho nên…”. Thay vì xử sự cho qua chuyện như mọi người, rằng “Bởi vì sáng nay trời mưa cho nên em đi học trễ”, tôi phức tạp hóa vấn đề bằng câu: “Bởi vì đất nước ta vừa trải qua chiến tranh cho nên chúng ta còn hạn chế về tự do”. Cô giảng viên bảo “em sai rồi”, tôi mới đứng dậy phân trần “thưa cô, em đúng mà”. Thế là anh lớp trưởng ngồi bàn bên quơ cây thước gỗ to cồ thọc mạnh vào mạn sườn tôi: – Sai là sai quan điểm, ngốc à.
Giáo sư dạy tôi nghĩ theo lối nghĩ của sách giáo khoa, đã đành; bằng hữu thay vì hỗ trợ và kích thích tôi tìm tòi sáng tạo thì lại đóng vai kẻ canh chừng không cho tôi bước chệch khỏi quỹ đạo giáo dục cho phép, nên – tôi cứ thế cúi đầu răm rắp làm theo thầy, theo sách. Tất cả tình nguyện trở thành tín đồ thuần thành của thứ chủ nghĩa theo-ism, rập khuôn có sẵn. Nơm nớp sợ khác người, sợ bị hiểu lầm hay sợ không ai hiểu mình, cuối cùng – sợ thất bại, cho dẫu tạm thời. Với một theo-ist được gò như thế, chuyện phá rào là bất khả.

Còn xã hội ngoài kia? Chưa nói đến cộng đồng làng xã với văn hóa làng xã luôn dị ứng với cái mới, cái khác mình, sẵn sàng tư thế miệt thị, áp chế tư tưởng vượt qua tầm hiểu của mình; ngay một tổ chức xã hội đầy quyền năng chuyên môn như Hội Nhà văn Việt Nam, cũng chưa có cái nhìn thoáng mở, chưa thực sự dũng cảm ủng hộ cái trái ngược. Phần thưởng dành cho sự độc đáo, sáng tạo càng hiếm hơn nữa. Giải thưởng thơ phần đông ưu ái các loại Thơ Mới biến thể của thứ mĩ học ở thời xa lắc, cho lí luận phê bình là những Tản mạn… hay Tạp cảm… đủ loại. Nếu có lỡ phá cách, ta luôn dỏng tai nghe ngóng tiếng nói từ báo chí, đủ loại báo chí phổ thông. Ngoảnh lại sự cố lùm xùm xung quanh Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, mà hỡi ơi cho văn hóa làng xã ấy. Hành trạng công nhận trao giải – tố cáo chụp mũ – phủi tay chối bỏ lá phiếu của chính mình nơi vài thành viên Ban chấp hành – nói lên tất cả nỗi sợ hãi của tầng lớp được xem là ưu tú nhất của xã hội này. Thì làm gì mong mỏi từ giữa lòng xã hội ấy nảy ra cá nhân xuất chúng!

Cá thể nào có thể vượt được cơ chế đóng [hay he hé mở] từ gia đình, nhà trường đến xã hội kia? Đây đó, đã có không ít nhà văn ý hướng đạp đổ bức tường, đã có không ít nhà thơ quyết từ chối giấy phép xuất bản, cương quyết in photocopy tác phẩm để thể hiện tự do tư tưởng, tự do sáng tác của mình, và họ chấp nhận trả giá. Công cuộc không đáng này đã làm tiêu hao bao tinh lực của tuổi trẻ, thời gian qua. Vượt qua chúng là khó, nhưng không phải bất khả. Còn nhận ra và phá bỏ rào cản vô hình dựng ngay trong tâm thức ta, thì ngàn lần khó hơn. Đó là lề thói tư duy nhỏ lẻ, não trạng ăn theo, núp bóng phát sinh và được nuôi dưỡng từ nền “văn chương cỏ gianh” trong nền “văn hóa quà vặt” (từ dùng của Vương Trí Nhàn). Chỉ khi vượt qua nó, nhà văn mới có thể nói đến sáng tạo đích thực. Khi cuộc chuyển hóa tâm thức này xảy ra, biết đâu chính mấy thứ tưởng như trở lực kia, qua hành động công phá không ngưng nghỉ, nhà văn ta hóa thân lớn dậy để làm nên tác phẩm lớn.

4. Nhưng hỏi các cá nhân nhà văn, có ai trong chúng ta đã sẵn sàng để… lớn? – Rất ít!
Thiếu triết học, ta có thể đổ lỗi cho cơ chế với ngài khách quan, nhưng – theo quan sát của tôi – nhà văn ta còn chưa nắm bắt đầy đủ thực tế cuộc sống sôi động ngoài kia, nắm bắt và suy tư đủ sâu về nó. Đây đích thị một trớ trêu. Bởi “ba cùng” từng là khẩu hiệu các quan văn cổ xúy. Hội Nhà văn Việt Nam cùng các hội đoàn địa phương bỏ tiền của tổ chức bao nhiêu là cuộc thâm nhập thực tế, nhưng ta cứ thiếu.
Bởi, khi đi vào cuộc sống địa phương, ta vẫn qua loa, hời hợt.
Mới đây thôi, 27-4-2008, “Báo cáo Lịch sử Đất Mũi và 30 năm xây dựng – phát triển Cà Mau” – một văn bản khô khan nhưng ngồn ngộn sự kiện mới lạ được trình bày bằng thái độ nhiệt tình với sự phấn chấn hiếm có của đại diện Khoa giáo Tỉnh – được non hai chục nhà văn trẻ Sài Gòn nghe một cách hờ hững. Hơn nữa, không ai ghi chép cả! Như thể báo cáo chính trị – xã hội kia chả can hệ gì đến sáng tác thơ văn tôi.
Sau đó, mùa hè 2008, đoàn nhà văn TP Hồ Chí Minh đi thực tế huyện Bảo Lâm – Lâm Đồng. Mươi nhân viên Công ty Thuỷ điện Đồng Nai 4 cùng năm anh chị em thuộc đội ca nhạc dân tộc Châu Mạ, hai già làng nữa đón đoàn, trân trọng và đậm tình. Đốt lửa, rượu cần, thịt heo rừng quay, ca hát,… Vậy mà nhà văn ta “dấn thân” chưa đầy hai tiếng đồng hồ, đã xin kiếu, lên xe máy lạnh về thị xã ngay trong đêm khuya khoắt ấy. Trong khi ở đó vẫn còn mồi (bắt chước lối nói của Bùi Chát), nhà nghỉ có sẵn, không khí văn nghệ đang kì cao điểm. Tại sao không ở lại nhạc rừng by night với anh chị em? Để vui thôi, chứ chưa nói đến chuyện ba cùng [khổ] với đồng bào.
Đi thực tế, ta rất thiếu… cô đơn. Nhà văn luôn cõng theo lỉnh kỉnh bao nhiêu là “vấn đề” từ nhà về vùng đất mới. Dự lễ hội Katê Chăm, nhà văn khoái khách sạn nhiều tiện nghi hơn trú lại nhà dân, thích làm khách sang của gia đình sang trọng hơn là lăn xả vào chốn nghèo hèn và, đáng nói hơn cả là, luôn gánh cả đống chuyện văn chương chữ nghĩa ở tận thành phố theo mình. Hiếm ai tạo được “những ngày rỗng” toàn triệt để thu vào tầm mắt đất trời Phan Rang lạ lẫm, tò mò tìm biết bí ẩn bao mảnh vụn của nền văn hóa Champa, lắng nghe câu chuyện Chăm, cảm thông những tâm hồn cô đơn và kiêu hãnh Chăm,…
Chúng ta chưa học biết cởi bỏ cô gái ở lại bên này bờ sông như chú sãi kia trong một ngụ ngôn Thiền, mà một mực vác nàng theo suốt hành trình chữ nghĩa nặng nhọc.

Thứ nữa, thâm nhập vào mọi vùng tối, khoảng trống của ngôn ngữ để khai thác tối đa tiềm năng khả thể của ngôn ngữ, nhà văn ta chưa có đủ í thức đó. Nhất là nhà thơ, kẻ được coi như nghệ sĩ của ngôn từ. Chúng ta chăm chăm vào nội dung tư tưởng xã hội, tính giáo dục của tác phẩm mà bỏ bê [hoặc rất ít chú í] khả tính nội tại của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ sống được sản sinh từ giữa lòng đời thực.
Bắc, Trung, Nam rồi sau đó, đất nước chia hai nảy sinh bao nhiêu là khác biệt về từ vựng và cách sử dụng. Sau Bảy lăm, sự thay đổi liên tục về chính sách (chỉ tính riêng nông thôn: chia ruộng đất, ba khoán, khoán sản phẩm, khoán trắng, rồi giải thể hợp tác xã, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…) đẩy cả ngàn từ vựng nóng hôi hổi cấp tập chào đời. Năm mươi tư dân tộc trong hơn tám mươi sáu triệu dân, trong đó sáu dân tộc có chữ viết truyền thống, có dân tộc sở hữu cả nền văn hóa – văn minh lâu đời, ngôn từ phong phú bao nhiêu mà kể. Nhưng hiếm hoi lắm chúng mới hân hạnh góp mặt trong thơ đương đại. Các chữ sang trọng đầy quen thuộc đến cũ mèm vẫn cứ chễm chệ trang trọng trong sáng tác thơ ca dòng chính lưu.
Khía cạnh này, thái độ sử dụng tiếng Việt của Nguyễn Hoàng Nam, Bùi Chát rất đáng ghi nhận. Hay gần đây, Đinh Linh với thơ tiếng Việt của anh:

Truyền thống không phải là những lề lối, cách dùng cũ nhạt, ứ đọng, mà là di sản ngôn ngữ linh động của cả một dân tộc. Ngôn ngữ chợ búa, du đãng, những bài thơ tiền vệ, chữ lóng cũng thuộc về truyền thống. Thậm chí ngôn ngữ dùng sai, bởi con nít, những kẻ nói tiếng Việt không rành, chẳng hạn Hoa Kiều, Việt Kiều hay những nhân vật tỉnh Nghệ An, cũng thuộc về truyền thống. Nhà thơ có quyền, thậm chí có trách nhiệm, đùa với truyền thống, tìm những chức năng mới cho nó. Hơn nữa, bạn còn có thể mượn truyền thống người khác để làm phong phú ngôn ngữ mình”(2).

Sự chưa đủ này lại là một rào cản khác.

Thêm: bao nhiêu là nỗi sợ hãi vây bủa nhà văn. Dưới hay trên, ngoài và trong, xa và gần! Sợ bị soi mói, bị chụp mũ, sợ tác phẩm không được in hay bị thu hồi sau khi phát hành. Sợ cho mình, sợ cho nhau và sợ nhau, nên ta rất sợ mình không giống ai…(3). Ta vừa viết vừa liếc nhìn người bên cạnh, người đi trước, đàn anh chị hay bạn đồng hành cùng trang lứa. Ta sợ đi một mình. Là nỗi chưa đủ cô đơn cho sáng tạo. Cô đơn đầu tiên và cuối cùng. Sự cô đơn cần thiết để tạo nên tác phẩm chiều sâu.
Chưa đủ cô đơn trong giai đoạn đầu tư thai nghén. Nhà văn bị cuốn vào cuồng lưu hội hè đình đám, hội thảo chòm nhóm, văn chương chưa ra trường phái đã biến thành phe phái. Chưa đủ cô đơn khi đối diện với trang giấy/ màn hình trắng. Bao nhiêu bóng u ám, giọng mơ hồ lởn vởn trong ta, quanh ta, sẵn sàng đe dọa thân xác ta, uy hiếp tinh thần ta; nó lên tiếng thì thầm khuyên nhủ hay trừng mắt răn đe ta nên thế này với không nên thế nọ, khiến ta lơi tay hay bẻ cong ngòi bút lúc nào không hay. Chưa đủ cô đơn cả lúc tác phẩm đã sinh hạ. Ta lắng tai nghe ngóng dư luận về nó, rằng nó có vấn đề gì không, các nhà phê bình có để mắt đến nó và, tệ hơn cả là ta mãi tư thế đứng ra bảo vệ nó khi nó bị chê bai.
Bấy lâu, ta luôn là con người của số đông, số đông trong giới văn nghệ, số đông giữa người đọc và, số đông cả khi chỉ ngồi một mình, cô độc!(4).
Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo, từ đó nơi thẳm sâu tâm thức nhà văn ẩn chứa tinh thần tự kiểm duyệt. Tự kiểm duyệt theo nghĩa rộng nhất của từ này. Tự kiểm duyệt và hỗ trợ nhau kiểm duyệt trước khi bị kiểm duyệt. Hậu đổi mới là thời hoàng kim của tự kiểm duyệt, Phạm Thị Hoài nói thế. Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo, nhà văn không dám sống tới cùng tư tưởng chọn lựa, không dám viết tới cùng, và nhất là không dám theo đuổi đến cùng dự án lớn lao không giống ai của mình [nếu nhà văn đã nghĩ ra được và hoạch định trước đó].
Mà đã sợ hãi, thì làm gì có sáng tạo đúng nghĩa!

Rào cản cuối cùng, là nhà văn chưa đủ í thức về nghề. Đại đa số nhà văn hôm nay chưa thoát khỏi quan niệm văn chương là trò chơi. Ch. Fredriksson: “Í tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng. Nhưng dường như ở Việt Nam các nghệ sĩ ít thích bàn về điều này, họ thường thích làm tác phẩm hơn là nói về các tác phẩm của mình”(5).
Ít bàn, ông nói – thực ra là: không bàn, không muốn bàn, không dám bàn vì, không khả năng bàn, thậm chí, dị ứng với lí luận. Đó là ông nhận định về cánh làm mĩ thuật. Bên văn chương cũng không hơn. Sáng tạo đầy mơ hồ không trên nền tảng mĩ học cụ thể nào, nhà thơ mãi chịu định mệnh một tập, một bài thơ, là thế. Không ít sáng tác có dấu ấn là sáng tác ăn may, ăn mòn vào năng khiếu “trời cho”. Trời cho tới đâu hay tới đấy, chúng ta thói quen nói như vậy. Sự thể sẽ dẫn đến đâu? – Bế tắc!
Tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn hay các Trung tâm bồi dưỡng viết văn, các trào lưu văn chương trên thế giới hãy còn khá xa lạ với sinh viên. Tri thức cơ bản nhất về các hệ thẩm mĩ văn học nghệ thuật tiên tiến không được cập nhật, thế hệ nhà văn tương lai hiện đang ngồi ghế giảng đường còn không biết thiên hạ đanh đi đến những đâu nữa.
Chưa đủ í thức về nghề, nên ta chưa suy tư qui mô về nghệ thuật, suy tư có tính nền tảng và rốt ráo. Sau Bàn tròn văn chương kì thứ bảy, tôi làm cái sơ kết: BTVC được ba thành công nhỏ nhưng vỡ ra một thất bại lớn. Thành công trong tập hợp đa thành phần, đa xu hướng sáng tác, nhiều lứa tuổi khác nhau với số lượng người tham dự ngày càng tăng để thực sự cùng bàn về văn chương đương đại; đề tài hay tác giả – tác phẩm của Bàn tròn được chọn tự do, vô phân biệt; thành viên thảo luận tự do trong một không khí cởi mở, vô ngại. Là ba điều chưa từng xảy ra trước đó. Nhưng thất bại lớn nhất và duy nhất của Bàn tròn văn chương là chất lượng của í kiến. Cứ đặt bảy Biên bản Bàn tròn bên cạnh bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo, chúng ta dễ thấy hiện diện ở đó cả một vực thẳm.
Đó là vật chứng không thể chối cãi về tầm í thức về nghề của nhà văn hôm nay so với nhóm Sáng Tạo. Trong khi tuổi trung bình của ta gấp rưỡi thế hệ trước ở thời điểm họ thảo luận, và ta đi sau họ đến nửa thế kỉ!
Trong sáng tác nghệ thuật, đạt được sự phát triển tinh thần tuần tự nhi tiến, ngày càng sâu rộng, cao lớn như Rembrandt, Van Gogh, Beethoven hay Dostoievski là điều cực hiếm. Ở Việt Nam, một Chế Lan Viên hay Tô Thùy Yên là hiện tượng lạ. Còn thì, phong độ khá phập phù. Không phải nhà sáng tạo vĩ đại đã không rơi vào bế tắc, nhưng khác biệt lớn giữa bế tắc thật và giả là tinh thần, thái độ, rằng nó nghiệp dư hay chuyên nghiệp(6). Chuyên nghiệp, ta tự tin làm việc trong bất kì hoàn cảnh nào. Chuyên nghiệp, ta chấp nhận giú mình nơi bóng tối vô danh trong thời gian dài. Ta không sợ cô đơn, không sợ cô độc, cả không sợ cô lập.

4. Mặt bằng độc giả là yếu tố không thể thiếu góp phần kích thích sự phát triển văn học. Nhưng ở điểm này, Việt Nam vẫn chưa có nhiều người đọc đúng nghĩa(7).
Trong các chuyến đi xuyên Việt, bằng tàu lửa hay máy bay hoặc xe du lịch chất lượng cao, nếu chịu quan sát ta sẽ thấy, ngoài số người ngủ gật hay làm chuyện vặt hoặc tán gẫu, có hai bộ phận đọc khác nhau: đọc sách và đọc báo. Chú í nữa, hầu hết người cầm trong tay cuốn sách dày là khách Tây, ngược lại: dân Việt Nam!
Đi vào các khu di tích văn hóa – lịch sử cũng xảy ra tình trạng tương tự, trong khi người Việt Nam xách theo gói đồ ăn với tờ nhật báo thì dân phương Tây luôn tay giở các trang sách. Đi du lịch, họ chuẩn bị sẵn tri thức tối thiểu về nơi họ sắp đến. Không hiểu, họ hỏi; hiểu lờ mờ, họ hỏi. Họ thắc mắc về sai biệt giữa thực tế và kiến thức được viết trong cuốn cẩm nang du lịch. Tại sao bức tượng kia không còn ở đó? Tại sao sách lí giải thế này mà cô thuyết minh như thế kia? Vân vân…
Ở xã hội nông thôn Việt Nam, vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà một gia đình trung lưu, đập vào mắt khách là tủ buffet chưng diện bát đĩa và… cái tivi đời mới. Mấy năm qua, ta có thêm máy vi tính. Hiếm gia đình có được tủ sách. Có – nhưng rất ít, chỉ lèo tèo vài chục cuốn.
Trước Bảy lăm, làng Caklaing quê tôi chưa tới ngàn dân có hai gia đình sở hữu tủ sách trên ngàn cuốn. Ở làng Hữu Đức là gấp đôi. Các tạp chí như Bách khoa, Phổ thông, Văn, Tư tưởng, Đại học,… được bày biện trang trọng là chuyện nhỏ. Tại vài hiệu sách tỉnh lẻ như thị xã Phan Rang, lứa trẻ chúng tôi dễ dàng tìm mua bộ Nho giáo, Thơ tiền chiến toàn tập, Bùi Giáng,… Hôm nay, nhân khẩu Caklaing tăng tám lần nhưng tủ sách gia đình thì hầu như tuyệt chủng! Chúng ta đọc báo, yên tâm rằng mình đã hiểu mọi chuyện. Độc giả ta hiếm cơ hội tiếp cận cái mới từ đó khó chấp nhận cái khác mình, cái xa lạ.

Độc giả phổ thông đã vậy, còn độc giả chuyên nghiệp thì thế nào? Khủng hoảng và tê liệt phê bình đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự lớn dậy của sáng tạo văn chương. Ta có đủ kiểu phê bình. Từ phê bình hũ nút đến phê bình hàng hai, từ phê bình quan phương đến phê bình du kích, phê bình bè phái hay phê bình chỉ điểm,… Riêng phê bình nhằm thúc đẩy văn học tiến tới thì rất hiếm. Một phê bình thoát khỏi hệ mĩ học cũ để mở ra hướng đi mới cho văn học(8).
Cứ ngoái lại xem Hoài Thanh đã ứng xử kịp thời và tài tình với phong trào Thơ Mới thế nào cũng đủ hiểu. Còn hôm nay, có nhà phê bình nào làm được thao tác đó? Không ai cả! Tháng 7-2008, trong buổi nói chuyện tại Khóa bồi dưỡng lí luận – phê bình văn học do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, tôi hỏi các học viên: Sau Hoài Thanh, có tác phẩm phê bình nào các bạn cầm lên để có thể nhận diện được một trào lưu văn học, một thời đoạn ngắn ngủn của thơ ca Việt Nam chưa? – Chưa!
Ngay í định làm một cuốn sách như thế, đến hôm nay – theo tôi biết – vẫn chưa (thực tế là có một, nhưng thất bại). Chúng ta tranh thủ viết tản văn, tạp ghi theo kiểu… tản mạn; chúng ta làm hội hè, hội thảo đủ loại; rồi thì rẽ sang làm công tác nghiên cứu, giảng dạy hoặc nhanh nhẩu nhảy vào cuộc cãi cọ nhảm nhí bằng phản ứng nhếch nhác chỉ bởi vài quy kết, xuyên tạc nhỏ nhen nào đó. Ta có đủ lí do chính đáng cho các sự vụ ấy. Trong khi tập trung vào công việc chính là phê bình thì, vẫn cứ chưa. Đành rằng, với nỗi “dồi dào” và “phong phú đa dạng” các tác giả, trào lưu, khuynh hướng văn chương xuất hiện trên đủ loại phương tiện thông tin, không nhà phê bình nào tự nhận quán xuyến tất cả. Nhưng ít ra người làm phê bình vẫn có thể chọn một/ một vài trào lưu nhất định để làm phê bình. Vậy mà mãi tận hôm nay, giới phê bình Việt Nam vẫn chưa cho ra đời tác phẩm như thế.

Dăm năm qua, tôi thử dấn vào “lập biên bản” sáng tạo của nhà văn hậu đổi mới, các tác giả viết trong cảm thức mới, sử dụng thủ pháp nghệ thuật mới. Các sáng tác của họ góp phẩn đẩy nhanh quá trình phi tâm hóa văn chương và xã hội Việt Nam. Nguyễn Hoàng Tranh, Mai Văn Phấn, Nguyễn Hoàng Nam, Đinh Linh, Phan Nhiên Hạo, Phạm Lưu Vũ, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Anh Hoài, Bùi Chát, Lý Đợi, Như Huy, Trần Nhã Thụy, Nhật Chiêu, Lê Vĩnh Tài, Vũ Thành Sơn, Đỗ Kh, Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Tôn Hiệt, Phan Bá Thọ, Đặng Thân, Lê Thị Thấm Vân, Trần Wũ Khang, Tuệ Nguyên, Khánh Phương,… Bao nhiêu là nỗ lực, bao nhiêu là hủy phá và sáng tạo đáng được ghi nhận ngay giai đoạn sung sức nhất của đời văn(9).
Tôi viết về họ, với hi vọng sau cao trào này, sẽ làm một tổng luận về thơ tiếng Việt hậu đổi mới. Để kết thúc một thời đoạn và mở ra một cái gì khác chưa thể biết được. Tôi không chắc mình có kham nổi công cuộc này không, nhưng thiết nghĩ, chỉ khi kịp thời ghi nhận đúng đắn nỗ lực và thành tựu khởi đầu của họ, nhà phê bình mới thật sự góp tay vãi một nắm phân đạm vào đám ruộng hợp tác xã văn chương tiếng Việt. Còn nhà văn có vươn ra cánh đồng văn chương thế giới hay không và vươn ra tới đâu, chỉ có họ trả lời được. Ở thì tương lai.

Sài Gòn, 9-2008 & 1-2010.

______________

Chú thích:
(*) “Nobel văn chương cho Việt Nam”, là khái niệm do Vietnamnet đặt ra trong một cuộc phỏng vấn. Tiểu luận này là hệ quả từ sự vụ ngẫu nhĩ đó.
(1) Xem thêm: Inrasara, “Văn học Đông Nam Á trong tâm thế hậu thuộc địa”, Song thoại với cái mới, NXB Hội Nhà văn & Nhà sách Kiến thức, H., 2008, tr. 48-63.
(2) Đinh Linh trả lời phỏng vấn, Tienve.org.
(3) Xem thêm: Inrasara, “Ngụ ngôn hậu hiện đại”, về Luận ngữ tân thư của Phạm Lưu Vũ, Tienve.org.
(4) Xem thêm: Inrasara, “Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo”, Song thoại với cái mới, Sđd, tr. 17-28.
(5). Ch. Fredriksson trả lời báo Thể thao – Văn hóa, số 142, 28-11-2006.
(6) Xem thêm: Inrasara, “Bế tắc trong sáng tạo”, Song thoại với cái mới, Sđd, tr. 28-48.
(7) Xem thêm: Vương Trí Nhàn, “Vì sao người Việt không mê đọc sách?”, Chungta.com, 22-9-2008.
(8) Xem thêm: “Điểm danh căn bệnh của phê bình hôm nay” trong tập tiểu luận này.
(9) Xem Inrasara, Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại, sắp in.

Vietnamnet, 10-10-2008.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *