Nói theo lối siêu hình học, con người sở hữu ngôn ngữ, thế nên một người học đến trình độ nào đó, đều nghĩ mình có khả năng soạn… từ điển. Có bạn trẻ vừa học xong khóa Tiếng Cham căn bản ở Trường Bổ túc Văn hóa Dân tộc nơi Thuận Văn Liêm dạy, đã tự tin nói với tôi: em đang soạn cuốn tự học tiếng Cham.
Tuyên bố không sai, vì bạn trẻ đã sở hữu được ngôn ngữ.
Dẫu sao để sở hữu nó đến nơi đến chốn là điều cực khó. Bởi, muốn sành một ngôn ngữ nào đó, có khi cần đến 15 năm. Tiếng Việt với người Việt thôi, học chính quy hẳn hoi, sau Đại học, không ít sinh viên ra trường vẫn viết sai chính tả. Đó là khía cạnh đơn giản nhất của ngôn ngữ học.
Còn khi muốn bàn về các mặt khác nhiêu khê hơn, ta buộc phải tìm hiểu các trào lưu của ngôn ngữ học thế giới, không thể khác. Nắm được dăm ba trường phái với học thuộc vài trăm thuật ngữ ngôn ngữ học thôi, ta cũng đủ… chết! Tôi có chứng cứ, một tiến sĩ dân tộc học người Việt, viết một bài về ngôn ngữ, đâu sai đó.
Thơ cũng vậy. Tiểu thuyết hay kịch nghệ thì khó, đại đa số người cầm bút không dám làm, không dám bàn tới. Nhưng với thơ thì… dễ. Ai cũng có thể làm được, bàn được. Bởi con người vốn sở hữu thơ. Nên không lạ, khi nhà thơ thì cãi nhau hăng hơn nhà nào khác, là vậy. Bởi ai cũng nghĩ thơ mình số một, lối thơ của mình là số một.
Điều này càng không sai. Nó thuộc hệ mĩ học. Nói như Nietzsche: “Cuộc chiến của con người là cuộc chiến vì màu sắc”.
Thế nhưng muốn hiểu thơ, làm thơ, và bàn về thơ đến nới đến chốn,- nghĩa là nếu bạn muốn có đóng góp một cái gì đó của riêng bạn vào nền thơ dân tộc hay nhân loại, bạn BUỘC phải học đến mụ người. Không thể khác.
Từ một thư riêng, thử bàn về địa danh Đà Nẵng
Thư V gửi Inrasara, ngày 7-6-2011
(in nguyên văn và xin viết tắt tên tác giả)

Chào anh Inrasara
Tôi đang tìm hiểu địa danh Đà Nẵng. Gần đây có nhà nghiên cứu cho rằng Đà Nẵng là từ chữ này (xin đính kèm), phiên âm La-tinh là “Hang Đanak”. “Hang” có nghĩa là dải đất do biển rút cạn để lộ ra, “Đanak” nghĩa là cửa sông tiếp giáp biển. Xin anh cho ý kiến đây có phải chữ Phạn, Cham cổ hay chữ Cham hiện đại, phiên âm như thế nào và ngữ nghĩa của nó.
Chúc anh sức khỏe. Rất mong phản hồi của anh. V.
Trả lời nhanh: Đây là chữ Cham hiện đại gọi là akhar thrah, có từ 300 năm nay thôi. Hang: bờ dốc; Danak (đọc là Tà-nằk): biển
Thư V gửi cho Inrasara cùng ngày
Cảm ơn anh đã phản hồi. Tôi được biết, có nhà nghiên cứu Cham lại cho rằng chữ này phiên âm Hadanak: Ha là biển, danak không có nghĩa. Là chữ Cham akhar thrah nhưng cách phiên âm và ngữ nghĩa sao có sự khác nhau vậy? Mong được anh giải thích.
Trả lời: Thời gian qua, nhiều người tự nhận nhà nghiên cứu lắm. Cả những người đã có vài đâu sách cũng rất là… mơ màng, anh à. Sau đây là câu hỏi mang tính gợi ý:
“Nhà nghiên cứu” kia là ai? Có phải chuyên gia ngôn ngữ Cham? Có bằng cấp gì? Có công trình nào về ngôn ngữ? Công trình kia có giải thưởng nào không? Chúng được giới chuyên môn [xịn] đánh giá thế nào? Ấy dựa vào tư liệu nào mà giải thích như thế?
Tôi tạm trả lời như vầy: Trước khi có chữ in (những năm 1970) chữ Cham viết không có tách chữ, nên HANGDANAK viết dính nhau. Ở 2 chữ này, chữ NG (dấu trên) trong chữ Cham phân biệt rất rõ. Từ điển Aymonier được xem là từ điển cổ nhất in 1906, định nghĩa nó:
Hang: bord bờ, bord margelle bờ ven. Ví dụ: hang kraung: bờ sông (tr. 501). Chú ý: bờ này thì to và dốc đứng, khác với bờ (ruộng) là: “ar”.
Danak: có 4 nghĩa: gần, cạnh – liễng (trầu) – hàng lối – và nghĩa cổ (nghĩa trong từ này) là: mer, océan biển, đại dương (tr. 215).
[Chú ý thêm: chữ “danak” do chữ “dak” mà ra. “Dak”: đồng từ xếp, sắp xếp + trung tố N = danh từ “Danak”. Xếp thành lớp, xếp thành liễng… Đây là một trong những lối cấu trúc chữ Cham].
Kết.
Tôi không trả lời về chữ Đà Nẵng có phải do “DANAK” mà ra không, vì đó không là nhiệm vụ của bài này. Ví dụ, đêm hè, ta nhìn lên bầu trời, ta thấy khoảng ngàn ngôi sao. Nhưng ta không thể bảo ngôi sao nào đó không có, bởi nhà thiên văn bằng kính viễn vọng có thể nhìn thấy và đặt tên cho chúng.
Ở đây, khi bảo “danak” không có nghĩa, “nhà nghiên cứu” kia không biết, mà không dám nói “tôi không biết”. Đó mới là điều đáng nói. Bảo “Danak không có nghĩa”, trong khi chữ đó có tới 4 nghĩa.
Ngôn ngữ, dễ mà khó là thế!
Cuối cùng, chúng ta hãy rất cẩn trọng khi bàn về ngôn ngữ, dù đó là ngôn ngữ mẹ đẻ. Thể hiện mình thì tốt. Nhưng phát biểu cái này đúng, cai kia sai thì nên tránh. Đọc một bài viết chê hay khen, ta cũng biết giữ tinh thần độc lập, cà cầu thị. Khiêm cung học thì hay hơn cả.
Nguyễn Văn Tỷ trong cuốn Đời sống Văn hóa – xã hội người Cham Việt Nam, NXB Văn học, H., 2010, giải thích:
Đà Nẵng là biến dạng của từ Cham DAKNAN. Theo tài liệu của cụ Bố Thuận (nhà nghiên cứu Cham, gốc Phan Rí, sống vào đầu thế kỷ XX) thì chữ dak có nghĩa là nước (Cham cổ), nan hay nưn (tức lanưng) là rộng. Địa danh Daknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông (cửa sông Hàn bây giờ). Người Việt phiên âm ra thành Đà Nẵng.
Vào thời Pháp thuộc (và trước đó), địa danh Đà Nẵng thường được gọi là Tourane. Vậy từ Tourane này do đâu mà ra? Cũng theo tài liệu của cụ Bố Thuận thì chữ DAKNAN của Cham người Trung Hoa gốc Hải Nam đọc là TOUNAN, do đó mà phiên âm thành Tourane.
Tiếng Cham thuộc ngữ tộc Nam Đảo, cùng hệ với đại bộ phận dân tộc thuộc nước Đông Nam Á, và bốn dân tộc khác ở Việt Nam. Trong quá trình lịch sử “tách lìa”, người Cham cư trú trong lục địa, tiếng Cham phát triển theo một lối riêng, rất đặc thù. và nhất là khi đất nước Champa tan rã để hòa nhập vào đất nước Việt Nam thống nhất, người Cham cư trú xem cư và cộng cư với người Việt, tiếng Cham có biến thái mạnh. Cả về ngữ âm lẫn ngữ nghĩa. Khi ngôn ngữ Mã Lai hay Indonesia được La-tinh óa, và khi người Cham vẫn còn chữ chữ viết truyền thống, , nhất là khi Biến thái
Nguyên âm I, U chuyển thành âm A, nguyên âm A chuyển thành Ư; chữ cái BA chuyển thành PA, vân vân…
– I chuyển thành A. Lấy ví dụ chữ cái T
Từ điển Aymonier ghi 65 từ viết cả 2 dạng ‘lang likuk TI’ lẫn ‘lang likuk TA’.
Ví dụ ‘tikuh’ (M. tikus) – ‘takuh’: chuột; ‘tingi – tangi’: tai; ‘ticei – tacei’: trỏ; ‘tijuh – tajuh’: số 7; ‘timuh – tamuh’: mọc; ‘tipay – tapay’: thỏ,…
Trong khi Từ điển Moussay chỉ ghi 3 chữ có ‘lang likuk TI’, còn lại tất cả chuyển sang TA.
– U chuyển thành A.
Ở Từ điển Aymonier, 30 từ viết cả 2 dạng ‘lang likuk PU’ lẫn ‘lang likuk PA’.
Ví dụ ‘puga – paga’: rào; ‘putih’ (M. putih) – ‘patih’: trắng; ‘pubaiy – pabaiy’: chuối; ‘putei – patei’: chuối; ‘patau – pataw’: vua; ‘putauw – patauw’: dạy,…
Còn Từ điển Moussay thì không có từ U nào! Tất cả đều chuyển thành PA hết.
Chỉ giữ lại Putirai: tên vị vua Champa. Còn ‘purami’ (S. purani) chuyển thành ‘porami’: rằm, hay ‘puja’ (S. puj) viết thành ‘pok ja’: kính trọng.

Thật mới mẻ!