Trong tiếng Cham, có ba dạng ghép chính: ghép song song, ghép chính phụ và ghép phụ nghĩa.
1. Ghép song song: là từ ghép trong đó các thành tố liên kết với nhau bằng quan hệ song song, bình đẳng với nhau về ý nghĩa
‘Bbơng hwak’: ăn uống, ‘Hia cauk’: than khóc
‘Đom pwơc’: nói năng, ‘Pangin jaluk’: chén bát
Từ ghép loại này thương mang nghĩa khái quát hóa.
‘Pangin jaluk’: chén bát, không chỉ có chén và bát, mà còn cả đũa, muỗng….
Về trật tự, thì có thể hoán đổi cho nhau: ‘hia cauk’hay ‘cauk hia’, ‘bbơng hwak’ hay ‘hwak bbơng’. Do thói quen, nhiều từ ghép vẫn cố định. Không ai nói ‘jaluk pangin’ hay ‘pwơc đom’.
2. Ghép chính phụ: là từ ghép trong đó các thành tố liên kết với nhau bằng quan hệ chính phụ:
‘Ikan thatik’: cá biển, ‘Rideh asaih’: xe ngựa
Loại ghép này, trật tự từ chính và phụ không hoán đổi với nhau được.
3. Ghép phụ nghĩa: là từ ghép trong đó thành tố thứ nhất được bổ sung hoặc tác động vào thành tố thứ hai, hay ngược lại:
‘Siam likei’: đẹp trai, ‘Praung inư’: to con, ‘Sang kiak’: nhà ngói
TỪ LÁY
Từ láy là từ có hai hay bốn tiếng (hình vị), tiếng “láy” lặp lại tiếng chính. Nó lặp lại hoàn toàn hay chỉ lặp lại một phần.
1. Láy: 2 tiếng: ‘praung prơng’: to tát; ‘kahrii kahria: tính toán. 4 tiếng: ‘trun trun tagok tagok’: lên lên xuống xuống; ‘nau nau mai mai’: đi đi lại lại.
Láy: bằng cách lặp lại hoàn toàn: ‘Bhong bhong: đo đỏ; ‘xamơr xamơr; nhanh nhanh
Láy một phần: ‘rami ramik’: dọn dẹp; ‘uk damuk’: háo hức.
2. Tiếng “láy” không có nghĩa khi nó đứng một mình.
Ví dụ: ‘lipih’ có nghĩa là “mỏng”; còn ‘lipi’ trong ‘lipi lipih’ thì không nghĩa. Nó phụ nghĩa làm cho nghĩa mạnh hơn: ‘praung prơng’: to tát; hay nghĩa nhẹ và đẹp thêm: ‘Limơn’ là mềm, khi nói ‘limi limơn’ thì nghĩa đẹp thêm là mềm mại. ‘Kalih’ là hà tiện, còn ‘kali kalih’ là tiết kiệm.
3. Cần phân biệt từ láy với từ mang hình thức láy.
‘Kađah kađe’: [gây] khó dễ; cả 2 hình vị trong từ này đều nó nghĩa, nên nó là từ ghép mang hình thức láy; ‘Bôl bala’: quân đội; ‘Gleh glar’, ‘Ligah ligôi’: mỏi mệt.
Nó cũng khác với từ tượng thanh.
‘Gur gal’: đùng đùng; ‘Re re’: [nước chảy] rỉ rả; ‘Dur dur’: ầm ầm/
4. Tiếng Cham là ngôn ngữ đa âm tiết, trước kia từ láy ít phát triển (so sánh Akayet Dewa Mưno – hiếm từ láy và Ariya Cam – Bini – từ láy xuất hiện khá nhiều), sau đó khi tiếp xúc với tiếng Việt, ngôn ngữ nói của người Cham ngày càng xu hướng rụng trọng âm, từ láy càng phát triển mạnh. So sánh 3 cuốn Từ điển Aymonier – Moussay – Bùi Khánh Thế ở 3 thời điểm xuất hiện khác nhau, ta nhận ra rõ nhất.
P.S.
‘Haci hacih’: sạch sẽ; ‘Lipi lipih’: mỏng manh; ‘Xami xamơr’: nhanh nhẹn; ‘Limi limơn’: mềm mại; ‘Kali kalih’: tiết kiệm; ‘Tati tatơng’: cứng cáp, khỏe khoắn; ‘Hali halơng’: đẹp đẽ; ‘Rabbi rabbưp’: cơ cực; ‘Tahi tahak’: khổ cực (rách rưới);’ Kuhii kuhia’: tính toán; ‘Rami ramik’: dọn dẹp; ‘Dawi dawơr’: vướng bận, loanh quanh; ‘Lidi lidia’: chậm chạp; ‘Tawi tawak’: vương vấn. ‘La-ơh la-ai’: đã đời; ‘Karung karang’: rối rắm; ‘Lidi lidia’: chậm chạp; ‘We wang’: quanh co; ‘We wang katang kate’: quanh quéo; ‘Ganuh ganat’: [hào quang] chói lọi