[& Lưu ý về Ngôn ngữ đa âm tiết]

Thời hiện đại, người ta học là học tiếng Việt là tiếng phổ thông ở đất nước Việt Nam, để giao tiếp, làm việc, viết văn… hay nếu ngon hơn, luyện cho tinh tiếng Anh là ngôn ngữ mang tính quốc tế, để mở ra với thế giới bên ngoài tìm kiếm cơ hội lớn hơn; chứ ai lại đi học tiếng với chữ Cham? Vừa chẳng tích sự gì (oh buh tamư gauk lisei hu: “chẳng bỏ vào nồi cơm được”), thêm mấy ông có chữ cãi vã ỏm tỏi thêm mệt. Thôi thì, hay hơn cả – bỏ quách đi cho xong?

Có phải vậy không? Và có dễ dàng như thế không?

Ông bà Cham quan niệm akhar là tri thức (Hu akhar caik di rup: “Có chữ, có kiến thức cất trong mình”). Con người không tri thức như khúc gỗ mục, chỉ đáng vứt đi, cho nên trong đám tang có lệ Jot akhar, thầy Paxeh đọc to từng chữ cái – đọc ngược đọc xuôi ba lần vào lỗ tai người chết để xóa mù cho họ. Còn hôm nay, tri thức ư? Thu thập qua ngôn ngữ nào mà chẳng được. Tiếng Việt, tốt; tiếng Anh càng tốt hơn.

Hay mới đây, bà con nghĩ Thei thuw akhar bbơng ngauk dauk dahluw: “Ai biết chữ thì được ăn trên ngồi trước”. Cũng xưa rồi! Chữ Anh, chữ Việt thì được, chứ chữ Cham thì đừng hòng. Càng giỏi tiếng Anh thì ta chiếm chỗ ngồi càng cao, bản thân ta càng được trọng vọng hơn.

Vậy, sao phải học tiếng và chữ Cham?

Về kinh tế, ừa, so với tiếng Việt hay tiếng Anh, chữ Cham kém thế với lép vế hoàn toàn, đến trẻ con cũng thấy. Xin miễn bàn. Dẫ sao nghĩ rằng, cho con cái học và nói tiếng Việt ngay từ còn bập bẹ, để trẻ con tập trung giỏi một thứ tiếng (Việt) trước, sau đó học lại tiếng mẹ đẻ (Cham) cũng không muộn, là lầm to! Đã có vài phụ huynh trẻ nghĩ và làm như thế, ngay giữa làng Cham, giữa lòng cộng đồng Cham. Và thực tế, hãy nhìn vào thành tích học văn của đám trẻ đào tạo từ “lò” gia đình nhân dân tiến bộ Chàm này!

Trong khi đó, các nhà tâm lí học cho biết, học song ngữ bilingual vừa giúp trẻ con vận dụng trí não tối đa, từ đó giúp kí tính của chúng phát triển, bởi chúng thường xuyên so sánh hai thứ tiếng. Cạnh đó, biết hai thứ tiếng giúp cho trẻ sở hữu nhiều cách nghĩ qua so sánh đối chiếu giữa lối nghĩ, lối nói của hai dân tộc. Ví dụ, chúng tò mò muốn biết tại sao người Việt nói trời đất ơi, trong khi người Cham kêu “trời biển ơi” lingik tathik lơy.

Về mặt tâm lí xã hội, xuất hiện hai chiều mặc cảm diễn ra có vẻ phức tạp hơn. Không ít người cảm thấy xấu hổ khi nói tiếng Cham với người ngoài, sợ bị phát hiện mình dân tộc thiểu số, nhất là mấy thanh niên choai choai khi tán gái Việt; ngược lại, đại đa số trẻ em lại mặc cảm giữa cộng đồng, khi xung quanh bé mọi người nói tiếng Cham, còn bé thì bập bẹ chính tiếng mẹ đẻ của nó. Mặc cảm này ngày càng lớn dậy khi chúng trưởng thành.

Trưởng thành, thế nào rồi ta cũng phải một, hai lần nhìn lại bản thân ta. Ta biết lí lịch ta: dân tộc Cham, quốc tịch Việt Nam. Qua Mỹ hay Pháp, ta vẫn khai ta Cham. Cham như một dấu thập đóng, in trên trán ta – không thể chối, không thể xóa. Dù [đánh vẫn] không khai, ta cũng bị phát giác qua thể tạng: So với dân Tây, ta thấp bé, da vàng, mũi tẹt… Với cộng đồng dân tộc Việt Nam, ta nâu hơn nè, miệng rộng nè, lông mày rậm với mái tóc pauh jien rất oách nữa… Giấu sao mà giấu! Căn cước tính luôn theo đuổi và đeo bám ta cho đến chết.

Vậy, khi không thể chối, bất khả xóa bỏ, tốt hơn là ta phải học tiếng Cham.

Đẩy vấn đề tiến xa hơn, biết song ngữ, ta sở đắc được hai văn hóa bicultural, từ đó ý thức liên văn hóa được khơi dậy trong ta, nó làm cho đời sống ta phong phú hơn, ta không phải đối xử phân biệt với nền văn hóa khác ta, qua đó tinh thần dân chủ được khơi dậy và mở rộng.

Bạn thấy đó, thế giới đang nỗ lực bảo vệ sự đa dạng sinh học bằng bảo tồn loài vật quý hiếm. Ngôn ngữ dân tộc thiểu số trên thế giới như một “loài” quý hiếm nhất trong những loài quý hiếm, bởi nó mất đi thì bất khả phục hồi. Đa dạng ngôn ngữ, đa dạng văn hóa cũng là ý hướng quan yếu của chiến lược hành động của UNESCO.

Bạn còn mặc cảm không? Tiếng và chữ Cham có đáng để bạn phải mặc cảm không?

Cham biết sử dụng chữ viết từ khá sớm. Bia Võ Cạnh (Nha Trang) – năm 192 sau Công nguyên, là bia kí đầu tiên bằng chữ Phạn ở Đông Nam Á. Cũng vậy, bia Đông Yên Châu thuộc hệ thống bia Mỹ Sơn cuối thế kỉ thứ IV, là minh văn bằng chữ bản địa có mặt sớm nhất khu vực. Ông bà Cham hãnh diện về điều đó.

Hôm nay, các bạn Cham có ưỡn ngực về truyền thống đó, không?

+

Lưu ý về: NGÔN NGỮ ĐA ÂM TIẾT

Tiếng Cham là một ngôn ngữ đa âm tiết (langues polysyllabique), trong đó từ song tiết (mots dissyllabiques) chiếm một số lượng lớn nhất, sau đó là từ đơn tiết; riêng từ ba và bốn âm tiết chỉ có một lượng rất nhỏ và phần nhiều chúng là những từ vay mượn.

1.  Từ đơn: (mot simple)

–   Từ một âm tiết (gồm từ đơn tiết và từ song tiết nhưng đã rụng bớt âm đầu)

Ba: mang; maung: nhìn

(a)maik: mẹ; (a)taung: đánh

–   Từ hai âm tiết:

Pakak: chặn; mưnwix: người

Tapuk: sách; mưtai: chết

–   Từ ba âm tiết:

Ariya: thơ; xaranai: (kèn) xaranai

Jalikauw: ong; baranưng: (trống) baranưng

–   Từ bốn âm tiết. Thường thì bộ phận từ này có nguồn gốc Sanskrit.

Mưhexarai: (giờ) hoàng đạo, tốt đẹp

Thampuranư: hoàn thiện hoàn mĩ

Trong cuộc sống ngày thường, người Cham nói nuốt âm rất nhiều. Đây cũng là điều thường xảy ra trong ngôn ngữ đa âm tiết. Dẫu vậy, nghe, mọi người vẫn hiểu.

Ví dụ: tamưkai (dưa), thường chỉ đọc là “tămkai” hay mưnei (tắm) đọc là “m’nay”)…

Lắm lúc, nếu trong văn nói mà chúng ta cứ phát âm rõ từng âm tiết một, nhiều khi nghe rất ngây ngô (như trẻ con mới học) và nhất là: không ai hiểu cả.