Inrasara
SUY TƯỞNG CHỮ NGHĨA
“Một hiện tượng văn chương bất kì, không thể bị dập tắt bởi khước bác hời hợt hay phủ nhận thô bạo; nó chỉ bị vượt qua, khi các cạnh khía vi tế nhất của nó được phơi mở trọn vẹn qua chính sáng tác ưu tú nhất thuộc hệ mĩ học đó”.
(Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo-2006).
Suy tưởng-02.
Nhà văn Việt Nam “chưa đủ cô đơn cho sáng tạo”.
Cô đơn khỏi hội đoàn, bè nhóm, cô đơn trước tờ giấy hay màn hình trắng, cả cô đơn sau khi tác phẩm đã ra đời. Chỉ khi đi xuống ba tầng cô đơn kia, nhà văn mới nói đến sáng tạo. Cô đơn là tự do là sáng tạo.
(tạp chí Văn, số 20, tháng 11-2004)
Suy tưởng-03.
“Nhà thơ học biết sợ thơ để người đọc còn cần đến thơ”.
(tạp chí Tia sáng, 20-5-2006)
Suy tưởng-04.
“Việt Nam không có truyền thống triết học, chúng ta cũng chưa sẵn sàng cho truyền thống kia. Triết học ta đang dạy trong nhà trường là thứ triết học Theo-ism”
(Vietnamnet, 10-10-2008)
Suy tưởng-05.
Sẽ không có cuộc cách mạng thơ trong tương lai gần. Một cuộc cách mạng văn chương cần hội đủ 4 yếu tố.
Trước hết, họ là người viết cùng thời, cùng quan điểm sáng tạo có khả năng dựng nên một trường thơ; thứ hai: chính họ phải lập ngôn cho hệ mĩ học sáng tạo của nhóm, của phong trào mình; thứ ba là nhóm thơ ấy có được diễn đàn độc lập; cuối cùng: cần có một lớp độc giả được chuẩn bị tinh thần và tri thức để sẵn sàng đón nhận tác phẩm của họ.
Xét cả 4 yếu tố, nền thi ca Việt Nam hôm nay đang thiếu, thiếu lớn!
(Hội thảo thơ, TPHCM, 7-2006)
Suy tưởng-06.
Nhà thơ Việt Nam chưa bao giờ giỏi lập ngôn cả. Sáng tác cảm tính đã đành, ngay phát ngôn về nghề, ta vẫn cứ cảm tính và tùy tiện.
(Hội thảo thơ TP Hồ Chí Minh, 25-8-2006)
Suy tưởng-07.
Còn phê bình, đa phần thiếu tư tưởng, nên mãi ăn theo sáng tác.
Phê bình không chỉ đi sau, mà còn song hành, thậm chí – đi trước sáng tác.
Nguyễn Thành Nhân viết về phê bình của tôi rằng, “có cảm giác Inrasara đã đi quá xa khi muốn trở thành một chủ soái văn nghệ và lái thế hệ trẻ non dại theo hướng nghĩ của anh”.
Nhận định đó không sai, bởi lối phê bình ấy của tôi mang khả tính “dẫn đạo” sáng tác.
(báo Lao động, 11-8-2007)
Suy tưởng-08.
Nhà văn Việt Nam hôm nay sở hữu đến 5 nỗi sợ.
Thứ nhất, là sợ sự thật; thứ hai, sợ cái mới. Sợ thứ ba và là sợ tệ hại nhất, đó là sợ lí thuyết, nghĩa là sợ suy tư có hệ thống. Từ đó dẫn đến nỗi sợ thứ tư: sợ đứng trước công chúng. Cuối cùng tất thẩy đều xuất phát từ nỗi sợ lớn nhất, như là nguyên do của mọi nguyên do: sợ cô đơn.
(Vanviet.info, 11-1-2016)
Suy tưởng-09.
“Văn học Đông Nam Á là vùng trũng của văn học thế giới, đó là điều cần được nhìn nhận và nói lên”.
(Phát biểu ở diễn đàn Văn học Đông Nam Á, 10-2005)
Suy tưởng-10.
“Thơ Việt đang khủng hoảng, một khủng hoảng cần được xem như một tín hiệu tốt lành”
(Hội thảo 20 năm Mỹ thuật đổi mới 1986-2006, Hà Nội, 4-2007)
Suy tưởng-11.
Tại sao các “thế hệ” thơ Việt không chấp nhận nhau?
Cứ xem cụ thâm nho Huỳnh Thúc Kháng đối xử ra sao với nhà thơ Mới Lưu Trọng Lư, cũng đủ biết. Tố Hữu, Xuân Diệu cho thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi lủng cà lủng củng. Trần Mạnh Hảo mỉa thơ Nguyễn Quang Thiều là “toàn một thứ Tây giả cầy”, vân vân.
Trả lời được câu hỏi này ta mới hóa giải và hòa giải xung đột thơ ca mấy thập kỉ qua chưa biết khi nào kết thúc.
(tạp chí Thơ, số 1, 2006)
Suy tưởng-12.
Dẫu thơ bị đóng cứng bởi đầu óc bảo thủ ngoan cố tới đâu, bị làm rách nát do kẻ nổi loạn phá phách cỡ nào; thơ có thay hình đổi dạng bao lần hay lang thang lạc bước đến những đâu chăng nữa, nó cũng phải trở về, trở về nơi nó xuất phát: con người, trong ngôi nhà của nó: ngôn ngữ.
Trong ngôi nhà đó, nhà thơ cư ngụ.
(Song thoại với cái mới, 2008)
Suy tưởng-13.
Một hệ mĩ học sáng tạo chỉ có thể được vượt qua bằng phê bình tác phẩm đại diện xuất sắc thuộc hệ mĩ học đó, chứ không phải ngược lại.
Phê bình hôm nay đang thiếu, thiếu và thừa lớn. Thiếu tư thế tự do cần thiết nên thừa sự tránh né, cả nể. Không đủ cô đơn cho phê bình, nghĩa là thiếu giữ một khoảng cách cần thiết với đối tượng nên phê bình dễ tạo cảm giác thừa tinh thần phe nhóm, cánh hẩu. Thiếu bản lĩnh chuyên môn, do đó, các nhận xét đều thừa ý kiến vừa xu thời vừa bất cập, tùy tiện. Cuối cùng, thiếu hiểu biết về lao động nghệ thuật cùng lòng say mê nghề nghiệp, nên thừa bài viết theo sơ đồ sáo ngữ làm sẵn, ở đó hoàn toàn vắng bóng suy tư
Suy tưởng-14.
(Phát biểu tại Lễ Phát giải thưởng Vanviet, 2015)
Suy tưởng-15.
“20 năm văn học miền Nam với những sáng tạo phong phú và độc đáo, từ chối nó, chẳng những thiệt thòi cho độc giả, mà là thiệt thòi cho cả nền văn học Việt Nam đa dân tộc, đa vùng miền.”
(tham luận tại ĐH Thủ Dầu Một: “Những vấn đề văn học và ngôn ngữ Nam Bộ”, 28-10-2016)
Suy tưởng-16.
Trào lưu hay chủ nghĩa luôn bị mỉa mai là “mốt”, là “chạy theo”. Làm như ta chưa từng học của nhân loại! Làm như phong trào Thơ Mới chưa từng “chạy theo” phong trào Lãng mạn, Tượng trưng của Pháp để làm nên cuộc cách mạng thơ Việt!
Các trào lưu văn chương, chúng không chết hay bị chôn vùi trong nghĩa trang văn chương chữ nghĩa, như lâu nay ta từng dè bỉu. Cần xem chúng như là những cuộn sóng, những xoáy nước trong dòng sông lớn của thi ca nhân loại. Chúng lặn đi, để sẵn sàng khai sinh đợt sóng mới, đột biến và bất ngờ, góp phần làm nên hình ảnh đẹp của dòng sông. Chúng tồn tại mãi mãi.
Suy tưởng-17.
“Thời đại thay đổi, thơ thay đổi, cách đọc thơ cũng phải thay đổi”.
(tạp chí Thơ, số 1-2006)
Suy tưởng-18.
Độc giả thơ cũng cần được đào tạo. Chớ nghĩ thơ không cần hiểu mà chỉ có thể cảm. Chính lối nghĩ này đã níu kéo thơ Việt ở lại trong vùng trũng chung của văn học Đông Nam Á.
(tạp chí Thơ, số 1, 2006)
Suy tưởng-19.
(tạp chí Nhật Lệ, 12-2015)
Suy tưởng-20.
(Inrasara.com, 2012)
Suy tưởng-21.
Làm một tập thơ và gom nhiều bài thơ lại thành tập, là hai việc khác nhau. Tôi làm tập thơ, và mỗi tập đều có “đề từ” như là tuyên ngôn bằng thơ cho chính tập đó.
(Inrasara.com, 2024)
Suy tưởng-22.
Một nền văn học tự do phải là nền văn học trong đó mọi người đọc-học tự do, viết tự do, in ấn và phát hành tự do, phê bình và thảo luận tự do.
(Văn chương tan rã, 2019)
Suy tưởng-23.
Nếu Phê bình Lập biên bản phá bỏ mọi rảo cản phân biệt đối xử, để ghi nhận hiện trạng văn học ở nhiều dòng, nhiều góc cạnh khác nhau; nếu Hồ sơ biên bản so sánh làm bật lên tâm thế và tinh thần sáng tạo khác nhau của các tác giả ở các thế hệ, vùng miền, hệ mĩ học khác nhau – qua đó mở ra cho người đọc nhận diện các khai phá mang tính kĩ thuật của nó; thì Phê bình khai phóng dấn thêm một bước mới mang tính quyết định.
Phê bình khai phóng phê phán và loại bỏ không thưởng tiếc mọi tác phẩm bạc nhược, nô lệ hóa con người, để nhấn đến văn học hướng con người về phía tự do. Cái thước đo lường là tác phẩm liên quan đến các vấn đề của đời sống, chứ không phải văn chương thuần túy; là thái độ nhà văn đã tác động đến sự khai phóng tinh thần con người, chứ không phải họ “cách tân” đến đâu; là thế đứng, tư cách của nhà văn đối với thế giới ra sao, chứ không phải sự nghiệp văn chương họ lớn thế nào.
(Thơ Việt, hành trình chuyển hướng say, 2014)
Suy tưởng-24.
Thơ nữ cần cắt đuôi hậu tố ‘nữ’. Tại sao không là nhà thơ, mà phải là nhà thơ nữ, nhà thơ dân tộc thiểu số…?
Suy tưởng-25.
(Vietnamnet, 10-10-2008)
Suy tưởng-26.
Văn chương vô bằng, nhất là thơ, thế nên khó cãi thế nào là thơ hay. Dẫu vô bằng tới đâu, không thể thiếu tang chứng để lôi nhau ra tòa. Bài thơ ấy có tứ mới không, thi ảnh độc, ngôn từ lạ cùng lối diễn đạt độc đáo không.
Suy tưởng-27.
“Thơ dân tộc thiểu số Việt Nam vừa đi vừa ngủ; mươi năm qua, nó vừa ngủ vừa đi”.
(Talawas.org, 12-4-2006)
Suy tưởng-28.
Nhà thơ, không biết vứt bỏ thì không thể lớn.
(Facebook Inra Sara, 2020)
Suy tưởng-29.
Siêu thực, tượng trưng hay gì gì Truyện Kiều có cả, – không sai. Dẫu sao có yếu tố nào đó thì khác cả vực thẳm với chủ nghĩa. Chủ nghĩa nhấn vào một yếu tố, đẩy tới, mở rộng… và lập thuyết.
Suy tưởng-30.
Thời đại thay đổi, thơ thay đổi, và cách đọc thơ cũng phải thay đổi. Độc giả thơ cần được đào tạo, là vậy.
(tạp chí Thơ, số 1, 2006)
Suy tưởng-31.
Thơ và thái độ thơ cũ cần chết đi, chết đi cùng mấy nhảm nhí của thơ và nỗi đông đúc chen chận không lọt của nhà thơ.
Thơ cần chết sớm đi, để người đọc khỏi lo lắng về thân phận èo uột của nó, cần chết nhanh hơn, để nhân dân khỏi tốn tiền của nuôi nó, nó cần chết ngay tức thì, để hằng năm cả chục tấn giấy được dùng vào việc khác thiết thực hơn.
Thơ cũ cần chết đi, để thế hệ thơ mới cùng loại thơ mới khai sinh.
(Inrasara, 2017)
Suy tưởng-32.
Ngôn ngữ như là ngôi nhà cho thi sĩ cư ngụ. Thi sĩ có thể vô sở trú trong không gian và thời gian, sự vụ chả có gì nghiêm trọng cả. Nhưng hắn sẽ mãi mãi chịu phận vô gia cư nếu hắn không cư ngụ trong lòng ngôn ngữ dân tộc, nếu hắn không có ngôn ngữ như là ngôn ngữ để cư ngụ.
(Hàng mã kí ức, 2011)
Suy tưởng-33.
Nhà văn hôm nay mắc mất nỗi sợ. Thứ nhất, là sợ sự thật. Thứ hai, sợ cái mới. Sợ thứ ba và là sợ tệ hại nhất, đó là sợ lí thuyết, nghĩa là sợ suy tư có hệ thống. Từ đó dẫn đến nỗi sợ thứ tư: sợ đứng trước công chúng. Cuối cùng tất thẩy đều xuất phát từ nỗi sợ lớn nhất, như là nguyên do của mọi nguyên do: sợ cô đơn.
[tạp chí Nhật Lệ, 12-2015, Vanviet.info, 11-1-2016]
Suy tưởng-34.
(Thơ Việt, hành trình chuyển hướng say, 2014)
Suy tưởng-35.
“Nhà văn là kẻ chọn đứng về phía bộ phận sinh linh chịu đựng lịch sử, chứ không phải người làm lịch sử. Hắn cần hiểu sinh phận người sống cạnh hắn, xung quanh hắn, và cả các xó kẹt thế giới, cảm thông, chia sẻ và nói lên tiếng nói nhỏ yếu của họ”.
(“Đối thoại Orchid Island Taiwan”, Inrasara.com, 2019)
Suy tưởng-36.
“Tôi không cho hậu hiện đại thì tiến bộ hơn hiện đại, tượng trưng thì lạc hậu so với cái gì đó mới hơn. Mỗi trào lưu tư tưởng đều giúp con người phương cách để khám phá hiện thực, mỗi trường phái văn nghệ đều có thể hiến tặng cho nghệ sĩ một cách biểu hiện khác. Chúng góp nhiều chiều nhìn để làm phong phú cuộc sống tinh thần của nhân loại. Thái độ cản trở sự hình thành và phát triển cái mới mới là lạc hậu và phản [chuyển] động.
(“Đối thoại hậu hiện đại”, Tienve.org, 2-2009).
Suy tưởng-37.
“Nhà văn là kẻ lưu giữ kí ức dân tộc”.
“Nhà thơ thì khác, hắn sáng tạo giấc mơ cho dân tộc.”
(Đối thoại Fukushima, 2019)
Suy tưởng-38.
Một nhà văn hậu hiện đại là kẻ, vừa theo dõi các trào lưu triết học mới nhất trên thế giới, đồng thời vẫn có thể đi vào làng quê vùng sâu vùng xa điều tra vụ mất cắp gà để hỗ trợ chính quyền địa phương giải trừ tệ nạn xã hội.
(“Đối thoại hậu hiện đại,” Tienve, 3-2009)
Thi ca không phải là cái đẹp thêm vào cuộc sống, của trang điểm cho tính thể con người, càng không phải là trò nhàn đàm của và cho những tâm hồn mệt mỏi.
Ở đâu và bất kì thời đại nào cũng có những tâm hồn đau khổ và tuyệt vọng. Chính nơi đó thi ca có mặt. Nhưng thơ có mặt không với tư cách chiếc bè cho sinh thể kia bấu víu mà như chất xúc tác làm cháy lên trong tâm hồn bóng tối ấy tia lửa mới của hi vọng.
Suy tưởng-40.
“Nhà văn là kẻ chọn đứng về phía bộ phận sinh linh chịu đựng lịch sử, chứ không phải người làm lịch sử. Hắn cần hiểu sinh phận người sống cạnh hắn, xung quanh hắn, và cả các xó kẹt thế giới, cảm thông, chia sẻ và nói lên tiếng nói nhỏ yếu của họ”.
(“Đối thoại Orchid Island Taiwan”, Inrasara.com, 2019).
Suy tưởng-42.
“20 năm văn học miền Nam với những sáng tạo phong phú và độc đáo, từ chối nó, chẳng những thiệt thòi cho độc giả, mà là thiệt thòi cho cả nền văn học Việt Nam đa dân tộc, đa vùng miền.”
(tham luận tại ĐH Thủ Dầu Một: “Những vấn đề văn học và ngôn ngữ Nam Bộ”, 28-10-2016)
Suy tưởng-41.
Nhìn nhận nhà văn Việt Nam hôm nay “sống và viết hoàn toàn tự do” – dù phát ngôn xuất phát từ kẻ sáng tác hay người làm phê bình, nếu không phải là hoang tưởng khờ khạo thì chắc chắn là thứ tự dối lừa, không hơn không kém.
Một nền văn học tự do phải là nền văn học trong đó mọi người đọc-học tự do, viết tự do, in ấn và phát hành tự do, phê bình và thảo luận tự do.
(Văn chương tan rã, 2019)
Suy tưởng-42.
Ngôi nhà triết lí sống của tôi đặt trên 4 chân kiềng: Tâm thế giải sân hận của Ariya Glơng Anak; Tư tưởng Phi tâm hóa hậu hiện đại: Phá bỏ bức tường ngăn trung tâm ngoại vi, qua đó giải mặc cảm thiểu số, tỉnh lẻ… Tinh thần tôn trọng sự khác biệt, và Suy tư toàn cầu, hành động cục bộ; Tinh thần Hóa giải & hòa giải của Pô Rômê và Thái độ Nhập cuộc về hướng mở của tôi.