[Về Tọa đàm văn học nghệ thuật đầu tiên của Tỉnh Khánh Hòa, khu vực-2, 8-11-2025]

Sau đề dẫn của nhà thơ Nguyễn Hữu Lợi: “Dấu ấn Văn nghệ dân gian và Thơ – Nhạc về người lính” là 7 tham luận, trong đó Đình Hy: 2.

Lê Hiển: “Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong thơ ca”, Đình Hy: “Thơ viết về người lính trong tạp chí Ninh Thuận trong thời gian gần đây”, Phạm Bá Lân: “Dấu ấn Văn nghệ dân gian và Thơ – Nhạc về người lính”, Trần Tuấn Hùng: “Thơ Trần Tuấn Hùng thương nhớ đồng đội đã hi sinh”, Nguyễn Văn Minh: “Tình đồng đội và tình cảm quân dân trong thơ Nguyễn Văn Minh”, là Đình Hy: “Thơ ca dân giang kháng chiến: Một mảng văn học cần tiếp tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu”.

Cuối cùng họa sĩ Trần Hà, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hòa “chỉ đạo và bế mạc tọa đàm”.

Tôi được ban tổ chức gợi ý trước và mời phát biểu ý kiến. Do các nhà tham luận dài, tôi cố ý tóm gọn còn 7 phút, đến nhà thơ sắm vai dẫn luận Nguyễn Hữu Lợi kêu: Anh Inrasara nói ngắn quá, lẽ ra cần thêm về văn học dân gian.

Ở đó tôi nói gì?

Tạp chí Khánh Hòa số mới nhất, Chế Diễm Trâm điểm sách Trần Đình Sử có đoạn: “Trong lịch sử văn học Việt Nam, ít nhất đã có ba lần ‘bứng trồng’ văn học nước ngoài với quy mô lớn”. Tóm: Văn học Trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng Trung Quốc, từ thế kỉ XX ta nhận ảnh hưởng văn học phương Tây nhất là Pháp, và giai đoạn ‘bứng trồng’ văn học Liên Xô và Trung Quốc hiện đại.

Câu hỏi, thế việc tiếp nhận văn học Mỹ và phương Tây ở đâu? 20 năm văn học hiện đại miền Nam không liên quan đến thao tác ‘bứng trồng’ này sao?!

Về chủ đề tọa đàm hôm nay, các tham luận mô tả và bình, là điều cần thiết và đúng trọng tâm, phần tôi chỉ muốn đặt câu hỏi, ở đó câu hỏi về ‘bứng trồng’ trên cần được xem như một khởi động.

Tôi nhìn chủ đề Tọa đàm từ góc độ khác: dòng chảy khác, ở bề sau chiều sâu hình ảnh người lính; qua đó, chuyển phạm trù: nguyên lí và bản chất trong sáng tạo nghệ thuật.

Ở các buổi hội thảo về văn học, 3 luận điểm mặc nhiên được chấp nhận: Thơ trẻ đương đại giống nhau quá; Phong trào văn nghệ không có giá trị, nên không cần thiết có mặt; và Ưu thế của các nhà thơ trẻ hiện nay là biết vi tính, giỏi ngoại ngữ, tiếc là họ thiếu trải nghiệm.

Đặt cả 3 luận điểm trước vài câu hỏi nền tảng, đối chứng với hiện thực sáng tạo, chắc chắn chúng sẽ đứng chênh vênh không nơi nương tựa, nếu không muốn nói là hỏng.

– “Giống nhau”, bạn đã theo dõi toàn cảnh thơ trẻ chưa? Bạn có nắm đủ lí thuyết sáng tạo mới để biện biệt nó không? Nếu chưa, và nếu không thì làm sao bạn có thể phân định rạch ròi được đâu là đâu?

Muốn dẫn chứng ư? Đây, kẻ đồng thời và cùng địa phương: Lê Thiếu Nhơn khác Nguyễn Hữu Hồng Minh khác Phan Trung Thành; cùng hệ mĩ học hậu hiện đại: Lý Đợi khác Bùi Chát khác Phan Bá Thọ. Nhìn qua cánh nữ: Phan Huyền Thư khác Ngô Thị Hạnh khác Ly Hoàng Ly… Khác cả vực thẳm.

– Tiếp, “phong trào”, ở đây cần hiểu như là “trào lưu văn học” với các thuyết lí cần thiết, chứ không liên quan đến “phong trào văn nghệ quần chúng” của một thời. Từ đầu thế kỉ XXI, tại TPHCM đó là trào lưu Hậu hiện đại, Tân hình thức, Nữ quyền luận…

Câu hỏi: Thời Tiền chiến, phong trào Thơ Mới không làm nên giá trị sao?

Nữa, trong một giai đoạn văn học, vài trào lưu xuất hiện và cạnh tranh, từ đó họ đấu chiến nhau mang tính lí thuyết; rồi mỗi trào lưu nỗ lực làm nên tác phẩm hay để biện minh cho hệ mĩ học của mình, từ đó làm nên giá trị – không là giá trị?

Đó là chưa nói, thao diễn của các trào lưu làm sôi động văn đàn.

Riêng vụ “thiếu trải nghiệm” liên quan trực tiếp đến chủ đề hôm nay, ta cần mở rộng.

Hỏi chứ, trải nghiệm có quyết định chất lượng của tác phẩm nghệ thuật? Bảo Ninh có nhiều trải nghiệm hơn các nhà văn mang áo lính khác? Rộng ra, bên kia trời Âu, Rimbaud ở tuổi teen đã làm cuộc cách mạng thơ ca thế giới, có cần lắm trải nghiệm đời như ta hiểu?

Để làm nên tác phẩm nghệ thuật lớn, nghệ sĩ cần đến suy nghiệm dài lâu, liên tưởng và tưởng tượng, và thể hiện nỗi ấy qua các thủ pháp nghệ thuật độc đáo. Nguyễn Thanh Việt đâu cần đến nhiều trải nghiệm, để làm nên tiểu thuyết The Sympathizer (Cảm tình viên, Kẻ nằm vùng, Giải thưởng Pulitzer năm 2015).

Và tại sao nhà văn không thể đứng từ góc nhìn khác, với suy nghiệm khác, để tác phẩm văn chương ngân lên tiếng nói mới, lạ? Alexievich của Belarus giải Nobel Văn chương năm 2015 với tác phẩm Chiến tranh không có bóng dáng một người đàn bà, không là gương sáng cho nhà văn nữ ta? Không lạ sao, cuộc chiến vừa qua, chưa có trường ca nào được viết bởi cây bút nữ Việt, dù họ là một bộ phận tham dự và nhất là – chịu đựng!

Tác phẩm nghệ thuật về người lính, ngoài quan sát và mô tả bề mặt, với dữ dội, quyết liệt, gian khổ, nhớ nhung, vui sướng… còn có gì thêm?

Người lính của Tô Thùy Yên, suy nghiệm về phận người, đối mặt với “Hiu Quạnh Lớn” trước vô tận không gian và vô cùng thời gian, cũng đủ tạo ra một kiệt tác: “Trường Sa hành” năm 1974, không là một “điển hình tiên tiến”?

Trên đây chỉ là các câu hỏi mang tính gợi mở.