1. Có thể nói, Thơ Mới là loại thơ nói, rất gần với văn xuôi. Một văn xuôi đẹp. Người đọc chỉ cần ghép các câu thơ lại để thành một đoạn văn xuôi có vần điệu.

Xuân Diệu: “Khách ngồi lại cùng em trong chốc lát. Vội vàng chi, trăng sáng quá khách ơi. Đêm nay rằm, yến tiệc sáng trên trời. Khách không ở, lòng em cô độc quá. Khách ngồi lại cùng em, đây gối lả. Tay em đây, mời khách ngả đầu say…”. Hay Chế Lan Viên: “Một ngày biếc, thị thành ta rời bỏ, quay về xem non nước giống dân Chàm…”

Thơ hiện đại thì khác. Từ Thanh Tâm Tuyền của thập niên 1950:

Ở cuối đêm

em rũ tóc nói những lời mê sảng

những ám hiệu

của mặt biển đen không tình yêu tuyệt vọng

anh xé tóc em cùng những cánh lá chết

mùa thu

gây thương tích nơi cườm tay

anh xô ngã em tờ chóp đỉnh hạnh phúc

                  (“Đêm” trong Tôi không còn cô độc, 1956)

đến Nguyễn Bình Phương ở cuối thế kỉ XX:

Nhìn thật kĩ hàng cây thành đỏ

Màu đỏ giăng trập trùng ngang trời

Sáng trong bóng tối

Một đôi mắt mèo

Một ngày không ai

Con đường vắng hồn hoa đi lảo đảo

(“Đêm ngà ngà”, trong Nguyễn Việt Chiến, Thơ Việt Nam, tìm tòi & cách tân, NXB Hội Nhà văn & Công ty Văn hóa trí tuệ Việt, 2007)

Khó có thể ghép chúng thành một đoạn văn xuôi, nếu ta không thêm hư từ hay cụm từ khác vào. Sự đứt quãng của ý nghĩ, hình ảnh nhảy cóc bất chợt, như thể chúng không ăn nhập gì với nhau. Chỉ còn lại nhịp điệu nội tại, hay nói khác đi, hơi thơ-hơi thở có mặt ở đó, tạo thành thể thống nhất để ta gọi: đó là thơ.

Nó làm thành một trong những cái đẹp của thơ hiện đại. Cái đẹp hơi… khó hiểu đôi chút. Khác hẳn với truyền thống thơ ca từng được biết đến trước đó.

2. Một cái đẹp khác, là sự thiếu và thừa chữ trong thơ hiện đại. Xét trường hợp của hai nhà thơ Thơ Mới trên, ta thấy không có từ thiếu hay thừa [có, nhưng rất ít, và không tiêu biểu] để làm chúng thành đoạn văn xuôi đủ đầy ý nghĩa. Nhà thơ hiện đại thì khác, có thể “thiếu từ” như Trúc Thông:

buổi sáng nguyên

tâm hồn nguyên

bạn hiền in nét

lúc

không giọt cà phê đậm

làu khói thuốc

sáng – tâm hồn con gái sắp lên hai

xuyên bức tường vô tận nhất – thời gian

một mũi tên bay mãi

hôm qua nó xâu táo quả tim ba chúng ta

giữa ngày tôi gặp nạn

lẳng lặng mũi tên xuyên

ba chàng trai đã sống trên đời

nửa thế kỉ

ba phương trời

(“Gởi bạn”, Ma-ra-tông, NXB Văn học, H., 1993)

Muốn thành một đoạn văn xuôi, ta cần thêm vài hư từ với những diễn giải cần thiết, độc giả mới nắm bắt được thông tin của văn bản. “Thiếu” này tạo nên chông chênh, dễ đổ của nhịp thơ Trúc Thông. Chắc chắn, cái hay của thơ Trúc Thông là cái hay “thiếu”, Nguyễn Quang Thiều ngược lại – cái hay của sự “thừa”.

Những cái tên đều đều vang lên trên mặt đá hoa cương rồi đời đời im lặng

Tôi nhìn thấy hàng cây mới trồng trên bến bờ của thế gian

Một ngôi sao bay về đậu lên trên trán

Ánh sáng chan hoà chảy trong máu xương tôi.

Đêm rền vang tiếng thở hơi của những cây kèn

Tôi là nhạc công sót lại cuối cùng bước dần ra phía sáng

Trong nghi lễ của đất đai, của bầu trời, tôi nâng kèn, ngước mắt

Tất cả những cánh đồng loa kèn bùng nổ – Bình Minh.

(Trong Bài ca những con chim đêm, NXB Hội Nhà văn, 1999)

Khá nhiều từ có thể được lược bớt cho tươm tất hơn, mà đoạn thơ vẫn trọn vẹn ý nghĩa. Lạ, chính sự thừa này góp sức không nhỏ tạo nên nhịp điệu của riêng Nguyễn Quang Thiều, không thể lẫn. Mà thơ hiện đại, nhịp điệu (rhythm) nội tại mang tính quyết định, chứ không phải vần. Bởi, nói như Charles Hartman: “Nhịp điệu đóng góp toàn bộ ý nghĩa của bài thơ, và phép làm thơ là chuyển nó trở thành ý nghĩa”.

3. Nữa, thơ hiện đại quyết phơi lộ toàn triệt con người, từ đời sống tình cảm cho đến lí trí, từ bản năng cho đến tâm linh. Thế nên, nó cần đến thứ ngôn ngữ khác, lạ so với ngôn ngữ thường ngày dù đẹp đến mấy của thơ lãng mạn, hay chính xác hơn – của Thơ Mới.

Mưa thu phay phay

Ngã tư năm ngoái

Biết tôi khờ dại

Em đi không sao chống cự nổi

Em dài man dại

Em dài quên che đậy

Em dài tê tái

Em dài quên cân đối

Em dài bối rối

Em dài vô tội

Em dài – khổ tâm

(Trần Dần, Tập thơ 63-64)    

Thốt tỉnh. Bây giờ là mấy giờ đêm?

Oi ả quá. Sóng không buồn vỗ.

Sà sà mảng núi ngang đầu

Trắng bệch màu mây mệt mỏi.

Vụt đứng dậy. Bồn chồn kinh hãi.

Sáng mau đi! Đá sập đến nơi rồi!

(Hoàng Hưng, “Thức giấc ở Hòn Gia”)

Từ đó, chúng gây khó hiểu.

“Đặc tính của thơ hiện đại được bàn cãi nhiều nhất là tính khó hiểu tối nghĩa của nó”, Delmore Schwartz nhận xét vào năm 1941. Bất kì bài thơ hay tập thơ nào của tác giả nào, cứ là khó hiểu với tối nghĩa. Nhất là ở ngôn từ. Vậy, thơ để làm gì? Lẽ nào thơ mãi tự nhốt mình trong lồng kính, để nhà thơ đọc nhau hay chỉ dành riêng cho độc giả đặc tuyển. Hậu hiện đại và tân hình thức ra đời đặt lại quan hệ giữa thơ và người đọc, kéo người đọc trở lại với thơ. “Tân hình thức như một thời lãng mạn mới, một trật tự mới hay một nền ca dao mới trong một xã hội bình đẳng và dân chủ, lôi cuốn người đọc, làm phong phú đời sống và ngôn ngữ tự nhiên” – Khế Iêm mơ mộng. Từ tân hình thức:

Mẹ dắt anh chị em tôi đi trốn

năm sáu ba. Không đâu xa mẹ dắt

qua nhà bà cô cách ba ngõ, mẹ

nói ngủ lại bà cô côi cút. Tôi

biết mẹ dắt anh em tôi chạy dịch.

Cha kể ngày xưa ông ngoại cõng cha

chạy xa rất xa. Thời buổi này ấp

chiến lược không đi đâu cả. Tôi nhớ…

(Inrasara, Chuyện 40 năm mới kể, NXB Hội Nhà văn, 2006)

Cho đến hậu hiện đại:

thơ mang khuôn mặt buồn của người

nông dân bỏ quê ra phố

… thơ ngất xỉu khi ngang qua cây cầu sập

còng lưng chảy máu mẹ nghèo

         (Lê Vĩnh Tài, Đêm và những khúc rời của Vũ, NXB Hội Nhà văn, 2008)

Thơ tìm cái đẹp ngay trong chính đời sống thường nhật. Ngôn ngữ thơ gần gũi với đời thường hơn và, nó phi tâm hóa đẹp với xấu, cao sang hay thông tục, nhưng không phải vì thế mà nhà thơ không “kì khu ngôn ngữ”.

4. Trở lại với “chữ trong thơ”.

Tôi đốt lên hàng đống chữ

dưới tàn tro

bươi lấy vài lời

(Inrasara, Lễ Tẩy trần tháng Tư, 2002)

Phạm Duy mất, tôi có viết: Tân nhạc Việt Nam, Trịnh Công Sơn là thiên tài, còn vĩ đại phải là Phạm Duy. Thể tài đa dạng, ngôn từ phong phú, mà bàn tay ông đụng đâu là sáng tới đấy, ở đó phổ thơ là một. Thế nhưng dẫu vĩ đại thế nào cũng có lúc lầm sai. Thơ Phạm Thiên Thư:

Thôi thì em chẳng yêu tôi

Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng

(Trường ca Động Hoa vàng-1971)

Hà cớ ông thay “nhớ” bằng “khóc”. Vừa trật với nguyên tác, vừa hỏng về thi ảnh, và sến chết đi được. “Nhớ rưng rưng” mới đẳng, chớ người yêu mà “khóc rưng rưng” thì thơ và tình đi đời nhà ma [chữ Bùi Giáng] rồi còn gì!

Thử tạt qua thế giới chữ nghĩa Cham. Thơ Inrasara:

Nụ cười phiêu lãng trên môi” (“Apsara, vũ nữ Chàm”-1979). Ca khúc cùng tên phổ thơ, nhạc sĩ Amư Nhân biến tấu thành: “Trên môi cười điệu nghệ”. Chơi kiểu ấy ca từ vô nghĩa đã đành, cạnh đó nó biến nỗi thơ ngây lãng đãng: “nụ cười phiêu lãng” thành thứ điêu luyện nhân [giả] tạo: “cười điệu nghệ”. Chết thơ rồi còn gì!

“Nghề lựa chữ” của thơ, từ cổ điển cho chí “hậu hiện đại” chưa bao giờ là “một trò trẻ nhỏ” [nhại Xuân Diệu] cả. Dù cố ý thừa hay thiếu, chữ luôn được nhà thơ chuyên nghiệp [hay “phu chữ”, như dụng ngữ của Lê Đạt] cân đong đo đếm, mục đích không gì hơn là mang thơ đến gần hơn với người đọc.

Chakleng, 10-8-2025