Đây là một địa danh quan trọng, thường xuất hiện khi nói đến lịch sử Champa cổ. Tên gọi hay dùng là: Harơk Kah, Harơk Kah Harơk Dhei hay Harơk Kah Dhei.
Harơk Kah ở đâu?
Theo nhìn nhận chung của hầu hết trí thức Cham thế kỉ XX, từ Thiên Sanh Cảnh cho đến Lâm Nài, Harơk Kah ở Quảng Bình, nghĩa là nơi cực Bắc của Vương quốc Champa cổ như chúng ta được biết.
Một câu hát trong ca khúc Đàng Năng Quạ:
‘Akok gah Harơk Kah, iku gah Panrang’: Đầu ở Harơk Kah, đuôi phía Panduranga.
Cham Pangdurangga ngày nay còn truyền [hay tưởng tượng] rằng đó là vùng núi mọc một loài cỏ (karơk) khá cao, mùa gió Đông thổi, vùng cỏ này bị đánh bạt ra hai bên tạo một dáng như hình đầu người chải tóc, để lộ một cái trán ‘dhei’ rộng.
Po Dharma cho rằng Harơk Kah ở Phú Yên, nghĩa là cực Bắc của Tiểu bang Pandurangathuộc vương quốc Champa.
Chớ vội cho ai đúng ai sai. Bởi cạnh hai quan niệm khác nhau trên, còn tồn tại hai “chứng cớ” khác về địa danh này:
Shine Toshihiko, qua trao đổi miệng với tôi ngày 26-12-2004 rằng, một già làng người Raglai khu vực làng phía Nam Lâm Đồng cho rằng Harơk Kah ở đâu về phía Bắc cách làng ông ta khoảng 30km. Ngoài ra, một “sử liệu” có văn bản hẳn hoi lại cho rằng Harơk Kah ởtận Hà Nội!
Câu 108 trong Ariya Ppo Parơng(1):
‘Halei dahlak ô ka nau bbôh tal
Camoh Harơk Kah nan pak nưgar Hanôi’
“Tôi đâu chưa đi thấy hết
Nơi Harơk Kah đó ở xứ Hà Nội”
Nhớ rằng thi phẩm được viết cách nay hơn 120 năm! Tác giả là người biết tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, nghĩa là rất đáng tin cậy. Dẫu vậy, ta cũng chưa nên vội kết luận.
Như vậy, thực sự Harơk Kah ở đâu? Thử lướt qua vài quan điểm về sử học.
Các quan điểm chính:
Trung hoa có ghi nhận các loại sử: thông sử, chánh sử, ngoại sử, dã sử, huyền sử. Phương Tây, ngoài chánh sử, sử chính thống (official history) còn có dã sử (synchronic history), sử dân gian (popular history) hay chung hơn: oral history (sử truyền khẩu). Chớ kêu ai “ngon” hơn ai. Đúng hơn, chúng bổ sung cho nhau, trong tâm thức của một dân tộc. Thử lướt qua ba quan niệm về sử học:
Các nhà Duy sử (Historicism)chỉ dựa thuần túy vào những biến cố, những sự kiện đã xảy ra. Và chỉ tin vào nó. Trong lúc ngay cả biến cố và sự kiện này cũng chưa hẳn đã đúng “như thật”.
Ông vua xây đền tháp nào đó, có thể ghi sai ngày tháng, số lượng mẫu ruộng trên bia đá, vì mục đích riêng. Hay nhà viết sử sau này, để bảo vệ quan niệm của mình, trên hàng trăm bia kí (nghĩa là thứ sử liệu không thể thay đổi), ông ta chỉ chọn ra một số mang nội dung có lợi cho chính kiến của mình. Điều này đã từng xảy ra. Hoặc đã không ít sử gia tạo ra hiện trường giả, sử liệu giả nữa, để phục vụ ý đồ của mình, phe nhóm mình!
“Những sử gia không phải chỉ là những người biên chép vô tư. Do sự chọn lựa, xếp đặt, nhấn mạnh và phân tích sự kiện, họ tạo ra một phiên bản đặc biệt của quá khứ. Và đồng thời họ cũng đóng một vai trò nào đó trong hiện tại, bằng cách hợp lí hóa hay vô hiệu hóa những lí do căn bản, những anh hùng và những huyền thoại ảnh hưởng đến cuộc tranh cãi đang diễn ra”.(2)
Nhận thấy thiếu khuyết đó, các nhà viết sử-phi duy sử tìm một cội nguồn khác:
“Không phải chỉ dựa vào sử khoa học (duy sử), tức là chỉ dựa thuần tuý vào những biến cố, những sự kiện đã xảy ra. Chủ đích của duy sử là đem tin và kể lại sự kiện. Chỉ có vậy thôi! Do đó ta cần phải có loại dã sử tức là sử tư gia, riêng tư.
Nói một cách khác là còn phải dựa trên câu chuyện kể của những người bình thường khác từ đó khám phá ra những yếu tố nằm ngầm, khai quật lại những điều còn mơ hồ chưa rõ ràng. Nói một cách khác dã sử giải nghĩa làm rõ sự việc hơn là đem tin.
Xét theo ý nghĩa triết học duy sử (diachronic history) tức là xem xét lịch sử theo bề mặt phiến diện, còn dã sử (synchronic history) là đào sâu xuống. Dã sử vẫn dựa theo tài liệu, sự kiện chi tiết cốt lõi của chính sử nhưng sẽ mở rộng tầm nhìn và đào sâu để tìm những gì còn ẩn náu sau các sự kiện.”(3).
Nghĩa là: cả hai, ai cũng nghĩ mình số dzách cả!
Từ đó mới có Thuyết Tân duy sử (New Historicism). “Louis Montrose quan niệm mối quan tâm chính của các nhà phê bình tân duy sử là ‘tính lịch sử của các văn bản và tính văn bản của lịch sử’ (the historicity of texts and the textuality of history). ‘Gọi ‘tính lịch sử của các văn bản’ vì ông cho tất cả các văn bản đều gắn liền với những chu cảnh (context) xã hội và văn hoá nhất định. Gọi là ‘tính văn bản của lịch sử’ vì ông cho tất cả kiến thức và sự cảm nhận về quá khứ của chúng ta bao giờ cũng tồn tại thông qua các dấu vết văn bản còn sót lại của xã hội.”(4).
Ba quan niệm về sử đều có ưu khuyết của nó.
Cham cũng như truyền thống Ấn Độ, không có truyền thống chép sử chi li như Trung Hoa. Chánh sử biến thành huyền sử là chuyện thường tình. Nhất là khi Champa tan rã, để tránh thất thoát “sử liệu”, người Cham đã khôn ngoan biến đa số tư liệu ghi chép thành văn bản sử truyền khẩu (oral history).
Cham biến sử thành văn: dễ nhớ, dễ thuộc. Ngoài ra, ông bà còn chuyển hóa chúng vào hàng trăm lễ nghi phong tục tập quán nữa. Thật siêu tuyệt! Damnưy Cei Axit, Cei Tathun, Nai Tangya Bia Atapah… được hát tụng trong các lễ Rija là bằng chứng xác thực nhất! Có ông sử gia duy sử nào dám cho rằng chúng không giá trị, hay chúng chỉ thuần giá trị văn học, ngoài ra không gì khác!?
Kết.
Harơk Kah tồn tại bốn nơi nêu trên [hay nhiều hơn nữa] mà không ở chính xác tại đâu cả. Bởi đơn giản nó vừa mang tính sử học – sự kiện vừa chỉ là địa danh ước lệ. Nó là nơi cực bắc của vương quốc Champa. Khi vương quốc Champa thụt lùi tới đâu, Harơk Kah chính là nơi đó.
Chỉ vậy thôi, chúng ta mới giải hòa được sự “căng thẳng tự nhiên” giữa hai giới viết sử: những sử gia kinh viện (academic historians) và sử gia đại chúng (popular historians).
Sài Gòn, mùa Hè 2005.
__________________
Chú thích
(1) Inrasara, Ariya Cam – Trường ca Cham, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2006, tr. 425.
(2) Website Timesonline, 4.4.2002.
(3) Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng minh tháo chạy, BBCVietnamese.com, 17.8.2005.
(4) Nguyễn Hưng Quốc, Tienve.org, 2006.

“Nhìn về phía trước, nhìn lại cũng chẳng thấy đâu” Điều này cho thấy cả tương lai lẫn quá khứ…
Panuec mada caik mat di abih nan panuec "ngak". Kayouk panueic ni hu ralo mbang anguei padar dalam ariya: "ngak…
Thật mới mẻ!