Ở Việt Nam, dân tộc Cham hiện nay có khoảng 18 vạn người, sống trên 10 tỉnh thành khác nhau, tập trung nhiều hơn cả là ở Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang… là cư dân của vương quốc Champa cổ. Khác với nhiều dân tộc thiểu số khác, người Cham sinh sống ở vùng đồng bằng và thành phố.
Hơn 200 năm sống xen cư và cộng cư với người Việt, Cham chưa từng đánh mất bản sắc, nói chi bị đồng hóa. Đó là nhờ ba chân kiềng: Lịch sử, ngôn ngữ chữ viết và tôn giáo dân tộc. Đó chính là sức mạnh nội tại của tinh thần văn hóa Cham.
Tút “Làm thế nào đứng ở đầu sóng ngọn gió, mà không gục đổ, để được hiệu quả và lâu dài?” Polinh Polinh còm: “Bác là người hùng của Đạo Bà-ni”, tôi trả lời: “Pô nói to rồi, không khéo Sara bị la đó – karun!”
Tôi đứng đầu sóng ngọn gió – không phải để tỏ ra oai khí [Sara đâu khở thế], mà là do THẾ BUỘC. Xin kể 3 chuyện:
[1] GHUR RANEH, từ năm 1999 nghe tin Ghur bị xâm hại, tôi 2 lần nói với yut Thành Chiểu cán bộ lớn nhất Cham ở Ninh Thuận, sau đó nhắc thầy Nguyễn Văn Tỷ, các vị chức sắc Phước Nhơn nữa, mọi người phản ứng gắt nhưng chỉ ngưng tại đó. Mà Pabblap có khá nhiều “trí thức”, dân khoa bảng có, cả các anh đi làm ‘urang parat’ như Hứa Phăng, Thập Liên Trưởng…
“Hai đóng góp lớn nhất của Cham vào nền văn hóa đa dân tộc Việt Nam, đó là Kiến trúc & điêu khắc và Hải sử & văn hóa biển; còn cho thế giới, là Đạo Bà-ni, khả năng hóa giải và hòa giải hai hệ tư tưởng không đội trời chung.”
(Đối thoại Bà-ni, facebook Cộng đồng Cham Bà-ni, 2021)
Đâu là Hải sử & văn hóa biển Cham?
1. Vài mảnh vụn lịch sử
Ngay ở đầu thế kỉ V, vua Champa là Gangaraja nhường ngôi lại cho người cháu, rồi vượt đại dương sang bờ sông Hằng, tu tập. Thế kỉ VII, người Cham đã có những giao lưu quan trọng với Nhật Bản.
Lục bát là thể thơ được cho là “thuần Việt”. Nhiều người kêu thế, và cho dù non thế kỉ qua các nhà nghiên cứu đã mấy lần chấn chỉnh, ta vẫn cứ thế mà kêu.
Hãy xem sự thể thế nào.
1. Dư luận xung quanh lục bát
[1] Trước hết, năm 1973 ở tùy bút “Thơ lục bát Chàm” trong Đất nước quê hương (Nxb Lửa Thiêng), Võ Phiến đặt vấn đề “mối tương quan về nguồn gốc” của thể thơ này:
Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận qua 30 năm hình thành và phát triển (19/01/1993 – 19/01/2023). Với nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày, giới thiệu về văn hóa Chăm nhằm mục đích tạo sự hiểu biết, giao lưu văn hóa lẫn nhau giữa các tộc người trong tỉnh.
Không gian trưng bày gốm Bàu Trúc tại Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Chăm.
Trước đây, những nghiên cứu về người Chăm tại Việt Nam chủ yếu tập trung trên các lĩnh vực khảo cổ học, kiến trúc đền tháp, tôn giáo và dân tộc học do các Viện Khoa học Xã hội, Viện Dân tộc học và một số trường đại học có giảng dạy về văn hóa Chăm công bố trên tạp chí, xuất bản sách. Khởi đầu, là công trình Người Chăm ở Thuận Hải do Viện Khoa học Xã hội Tp. Hồ Chí Minh và UBND tỉnh Thuận Hải phối hợp thực hiện và xuất bản năm 1989. Đây là công trình khảo cứu, biên soạn mang tính tổng quát, giới thiệu về văn hóa và xã hội người Chăm ở Việt Nam do tập thể tác giả Phan Xuân Biên (Chủ biên), Lê Xuân, Phan An, Phan Văn Dốp cùng một số nhà khoa học thực hiện.
Chính kiêu hãnh, cứng đầu và ngang bướng, Cham Pangdurangga mới luôn giữ được tư thế và thái độ động phản lại kẻ lạ: Khi họ mới đến, cả sau đó khi làm hàng xóm, rồi sống chung đụng với – là người Việt.
Cham TỪ CHỐI bất kì thứ gì người Việt mang đến.
Mấy món bảo thủ: Không tiếp nhận thần thánh từ ngoài, bám trụ tôn giáo Ahiêr Awal, chế độ gia đình mẫu hệ, Akhar thrah…, qua đó Cham sống sót và tồn tại với và trong bản sắc của mình. Dù – nói như Chế Lan Viên, “tháng ngày qua vẫn sống trong đêm mờ”.
Cố thủ trong lô cốt truyền thống, Cham được gì? Ít ra: cũng tồn tại qua.
Mấy ông Cham nói đùa mà thiệt: Nếu không có hai thứ “khanh”: Akhar [thrah] Chữ mẹ đẻ và ‘Khan’ Váy người nữ, Cham mất từ khuya! Nữa, đạo Ahiêr Awal…
Pangdurangga là khu vực địa lí lịch sử cực nam trong bốn khu vực thuộc vương quốc Champa. Suốt chiều dài lịch sử đầy biến động, khu vực này luôn chịu thiệt. Về mọi mặt. Xa trung tâm văn hóa lớn là vùng Amaravati thời Champa hưng thịnh, nó ít được ưu ái; không biết bao lần bị quân Khmer xâm lăng mà nó phải đơn thương chống cự, rồi sau đó – khi vương quốc suy yếu, một mình Pangdurangga phải chịu trận để thay mặt cả dân tộc mà tồn tại.
Tồn tại theo đúng tính cách của người Pangdurangga.
Người Khmer được đẩy vào chùa Phật giáo ngay từ bé rèn luyện cho đến lúc trưởng thành. Tại đây, có hai chọn lựa: hoặc trở thành thầy tu chuyên nghiệp hoặc tự tin đi vào đời, dựng nghiệp, lấy vợ, sinh con đẻ cái.
Cham cổ điển thì ngược lại, bạn bị ném thẳng vào trường đời để ngụp lặn, tôi luyện trong nó. Rồi ở tuổi đứng bóng mặt trời, khi đã có cơ nghiệp vững chãi, bạn có hai con đường để chọn lựa: hoặc chìm nghỉm trong hoặc bứt ra khỏi nó, để đi trên con đường trầm tưởng của riêng bạn.
Sắp tới, các bạn sinh viên Đại học Fulbright mời tôi thuyết xung quanh chuyện “dân tộc và sắc tộc” qua “diễn ngôn thống trị của người Việt ảnh hưởng đến các cộng đồng dân tộc khác”. Được gợi hứng từ “Văn hóa Cham nhìn từ Cham” trong chuyến Bắc tiến vừa qua, có lẽ.
Ừa, thì thuyết. Vậy nên xin [xỏ] đăng tút này trước để bà con có ý gì hay, góp vào.
Karun!
+
Ba tuần “Bắc tiến” tôi thấy, và hiểu Việt Nam “nợ” Cham những gì…
Bốn tuổi, vài bận nghe ông ngoại đọc Ariya Glơng Anak, tôi thuộc. Buổi tối nhà quê, nằm ngoài sân trăng, ông ngoại bảo tôi đọc theo, tôi kêu: ‘Yăng’ thuộc rồi, ngoại à. Thuộc rồi cũng học lại, ngoại nói.
18 tuổi năm cuối Trung học, tôi hai lần chép Dictionnaire Cam – Français của Aymonier-Cabaton khổ lớn dày 600 trang. 21 tuổi, từ Nha Trang tôi cuốc bộ ra Huế thỉnh bộ Kinh Hoa Nghiêm… Để làm gì?