1. Trần Hữu Th., sinh tại Điện Bàn – Quảng Nam, hiện sống và làm việc tại TPHCM. Làm thơ từ năm đầu cấp III Trung học. Dự Hội nghị viết văn Trẻ lần thứ 4. Có nhiều thơ đăng trên các báo địa phương và Trung ương. Đã xuất bản 3 tập thơ riêng, và có thơ được tuyển vào 15 tập thi tuyển. Giải B (không có giải A) 5 năm Văn học Nghệ thuật tỉnh.
Nguyễn Văn H.. Các bút hiệu khác: Văn Thanh, Gió Lang Thang. 32 tuổi Đảng. Phó giám đốc Sở Giáo dục – Đào tạo. Nguyên Ủy viên BCH Hội VHNT Thanh Hóa. Tham gia Lớp tập huấn viết văn của Hội Nhà văn Trung ương năm 1990. Các thi phẩm:… Giải thưởng đạt được:…
Đó là hai tiểu sử [giả định] những người làm thơ Việt Nam ưa dùng được ghi ở bìa gấp hay bìa bốn tập thơ. Continue reading
Category Archives: Tiểu luận
Inrasara: HÀNH ĐỘNG TRONG CHÂN TRỜI KHẢ THỂ
1. Tôi biết gì?
Thuở Trung học, tôi rất trung bình. Đất nước thống nhất, như chuột sa chĩnh gạo, tôi cầm được suất “ưu tiên” cho ngồi giảng đường. Tôi hết cử nhân, rồi qua Liên Xô lấy phó tiến sĩ hữu nghị. Tôi được cho vào lò đào tạo một chiều, như thể loài ngựa bị che hai bên mắt để cứ thẳng đường mà đi. Tôi chẳng thấy cái gì khác ngoài tri thức quý ngài giáo sư [cũng bị che mắt] từ mấy giáo trình bị tẩy sạch đến không còn đất cho tự do suy tư, phản biện. Vậy thì, hỏi tôi có đáng ưỡn ngực không?
Vì hoàn cảnh, tôi buộc thôi đại học dở chừng, trở về quê nhà. Nhưng bởi tình yêu tri thức, tôi mày mò đọc thêm. Tôi như ếch đáy giếng, được con trùng nào rớt xuống là tôi đớp không chút ngại ngần. Gặp sách nào cũng ngấu nghiến, bắt được thầy nào cũng học. Vài ngàn cuốn sách qua tay tôi, nhưng hoàn toàn không hệ thống. Kiến thức tôi bập bõm trúng trật, thì rõ rồi. “Chúng ta vỡ lòng mốc bụi dĩ vãng”, một nhà văn nói thế. Mốc bụi như vậy, ở đó mà tôi dám vênh mặt với người hàng xóm!
May mắn hơn, tôi sinh ra trong gia đình khá giả, thời cuộc thuận buồm xuôi gió được đào tạo trường Tây, qua đại học chính quy Mỹ, giật lấy bằng tiến sĩ chính hiệu. Tiếng tây tiếng u đủ đầy. Nhưng tri thức có nghề kia có là cái biết đích thực không? Hay hỏi cách sâu thẳm hơn: tôi biết gì, ngoài chuyên môn của tôi? Mà ngay cả cái chuyên môn kia cũng ra từ một lò, theo một trường phái, qua kiến thức giáo sư hướng dẫn. Nghĩa là nó vẫn bị quy định. Nói một cách hình ảnh thì ngay cả thứ ếch ngồi đáy giếng kia, có thấy một góc trời nhỏ hẹp nào đó, thì góc trời kia cũng đầy mốc bụi, xộc xệch qua mắt nhìn méo xẹo. Cái biết đó mà vỗ ngực với đời thì ngực kia lép xẹp là cái chắc! Continue reading
Inrasara: 30 ĐỔI MỚI, CÁC TRÀO LƯU THƠ VIỆT Ở ĐÂU, VỀ ĐÂU?
Hội thảo” Sáng tác văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: thực trạng và triển vọng.”
Viện Văn học, Hà Nội, 28-5-2015
Tìm trào lưu thơ Việt ở đâu?
Có thể sử dụng hạn từ “trào lưu”, “phong trào” hay “xu hướng” thơ, tùy mức độ phát triển và tác động của “dòng” thơ ấy vào quần chúng, cộng đồng văn học, thậm chí chỉ ở phạm vị hạn hẹp, là những người sáng tác với nhau. Ở đây, tôi tạm dùng từ “trào lưu” để chỉ xu hướng thơ mới gồm một nhóm người nhất định cùng sáng tác theo một hệ mĩ học [nhỏ hơn: ý hướng, vài hình thức biểu đạt…] với mục đích chung nhất, qua đó lôi cuốn một số người đi theo, ủng hộ.
Thơ Việt sau 30 năm đổi mới đã nảy ra nhiều trào lưu mới với nhiều cách biểu hiện và xuất hiện khác nhau. Một khi văn hóa internet phát triển cùng nhiều quan điểm sáng tác và xuất bản khác nhau, khi văn học trong nước và hải ngoại phần nào đó đang xu hướng “hợp lưu”, để tránh sự thiếu khuyết, người nghiên cứu cần có cái nhìn toàn cảnh mới bao quát được vấn đề. Nhìn toàn cảnh thơ Việt sau 30 năm đổi mới qua con mắt hậu hiện đại là lối nhìn giải trung tâm, coi các phong trào thơ ngoại vi là những dòng chảy quan trọng không chút kém cạnh so với thơ dòng chính, để tạo thành một hợp lưu là thơ Việt, nói chung. Thơ của các nhà thơ ở vùng sâu vùng xa hay thơ người Việt ở nước ngoài, thơ in photocopy hay thơ đăng lên mạng, thơ của các nhà thơ là người dân tộc thiểu số hay thơ nữ, thơ của người làm thơ chưa là [hay không muốn là] hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tất cả! Chính lối nhìn mở này mang khả tính khai phóng và thông dòng mọi trào lưu thơ Việt, 30 năm qua.
30 năm, thơ Việt có bao nhiêu trào lưu? Continue reading
Inrasara: VĂN CHƯƠNG TAN RÃ
[& về những ảo tưởng bị đổ vỡ]
Phân rã, không còn hạn định ở không gian và ý hệ phân định địch ta rõ ràng như thời trước 75; cũng không còn thuộc phạm trù chính trị bạn thù như thập niên sau đó; càng không phải ở quan điểm văn chương [thuần túy] như thời Đổi mới, mà là cái gì nhỏ lẻ hơn, vụn vặt đời thường hơn, nên tệ hại hơn. Một tan rã thuộc hàng vô tiền [khoáng hậu] trong lịch sử văn học Việt Nam.
1. Năm 1987 khởi động cho sự tan rã ấy qua sự xuất hiện của Nguyên Ngọc trong tư cách Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam kiêm Tổng biên tập báo Văn nghệ. Ở đó cuộc gặp mặt của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với non trăm văn nghệ sĩ vào tháng 10-1987 được xem là bước ngoặt.
Cởi trói, phong trào đổi mới tiểu thuyết và cách tân thơ nở rộ. Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Dương Hướng… nổi lên như những hiện tượng sáng giá, đẩy bao tên tuổi cũ với lối viết cũ vào hậu trường.
Tình trạng kéo dài đến đầu năm 1990, khi Hữu Thỉnh thay Nguyên Ngọc làm Tổng biên tập báo Văn nghệ, tờ báo của Hội Nhà văn bị giới lãnh đạo chính trị cho là đi chệch đường quá xa, cần định hướng lại. Phe bảo thủ dần dần thắng thế và lật ngược thế cờ. Các tác phẩm đổi mới bị phê phán, đỉnh điểm là tiểu thuyết Nỗi Buồn chiến tranh của Bảo Ninh – giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1992 bị mang ra mổ xẻ. Continue reading
Inrasara: 7 THÓI TẬT KHÁC CỦA PHÊ BÌNH VĂN HỌC HÔM NAY
Qua tiếp nhận những phát hiện của người đi trước và bằng quan sát của mình về hiện tình sinh hoạt văn học Việt Nam đương đại, tôi đã một lần gọi tên mười căn bệnh phê bình(1). Sinh hoạt phê bình văn học Việt Nam mấy chục năm qua đầy tràn các căn bệnh như thế với nhiều biến thái và biến tướng. Các bài viết kia cuối cùng được tập hợp lại trong một cuốn sách dày trên dưới 300 trang, rồi kêu đó là “tập lí luận – phê bình”: Cảm nhận, Cảm luận, Tản mạn… gì gì đó. Đọc suốt tác phẩm, độc giả không thấy đâu là tư tưởng nền tảng của nhà phê bình, mà chỉ thấy bao nhiêu giai thoại nhảm nhí, trích đoạn tùy tiện, nhận định vu vơ vô bằng, cùng muôn ngàn ý kiến nói theo từng xuất hiện nhan nhản trên đủ loại báo phổ thông.
Hôm nay xin bổ sung 7 thói tật mới/ khác. Continue reading
Inrasara: CÒN AI TIN VÀO NHÀ VĂN VIỆT NAM NỮA KHÔNG?
tạp chí Tia Sáng, 8-7-2015
1. Xã hội nào bất kì, muốn tự thức để tiến bộ, cũng cần đến sự phản biện. Một phản biện đích thực: trực diện, mạnh mẽ, và đầy trí tuệ. Không phải lối phản biện “dân hỏi Bộ trưởng trả lời”, hay như ở Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương, các diễn giả lên giảng bài, sau đó đưa địa chỉ email: “ai có thắc mắc gì cứ gửi điện thư cho tôi”. Mà là trực diện.
Xã hội Việt Nam hôm nay nảy sinh nhiều vấn đề nóng cần đến sự phản biện. Đâu đó đã có những phản biện, tội – ở đó nhà văn, nhất là cánh nhà văn thuộc Hội Nhà văn Việt Nam ít dự cuộc hơn cả. Trong khi nhà văn là kẻ phản biện xã hội.
Không phải các “nhà” khác không phản biện xã hội, nhưng chính nhà văn là người phản biện xã hội toàn diện nhất, và nhất là – cần thiết cho sự khai mở tư duy sáng tạo của hắn nhất. Continue reading
THẾ NÀO LÀ NỀN VĂN HỌC TỰ DO 5&6
5. Một nền văn học không thể nào tự đầy đủ cho nó. Nó cần biết đến thế giới bên ngoài, giao lưu và tương tác. Trở ngại ngôn ngữ đòi hỏi đến dịch thuật. Thế kỉ XIX trở về trước, dịch thuật đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi một đất nước, một vùng lãnh thổ. Không tiếp cận nền văn hóa khác [trong đó có văn học] thì không thể có cái mới. Đất nước mãi ở lại với cũ kĩ và lạc hậu.
Cả ở thời hậu hiện đại, dù ngoại ngữ đã thành quen thuộc trong vài bộ phận công chúng của nhiều đất nước, nhưng đại đa số vẫn không khả năng đọc nguyên tác, cho dù tiếng Anh phần nào đó trở thành ngôn ngữ quốc tế, và đại bộ phận tác phẩm, các công trình khoa học giá trị được diễn đạt qua ngôn ngữ này, công việc dịch thuật vẫn rất cần thiết. Continue reading
THẾ NÀO LÀ MỘT NỀN VĂN HỌC TỰ DO 3&4
3. Tự do xuất bản và in ấn
Thế nhưng, tự do sáng tạo để làm gì, nếu nền văn học đó không nhận được sự tự do in ấn, xuất bản? Tác giả có thể tự do muốn viết gì viết, cả tự do post lên mạng, in photocopy tặng văn thi hữu, ôm bản thảo chạy ra nước ngoài, hoặc giả cứ chạy giấy phép in để bị thu hồi, hay thậm chí – chịu tù tội. Hoặc, tác phẩm xong cứ cất trong ngăn kéo, sau đó kẻ sáng tạo tiếp tục dấn tới, chờ đợi thế hệ độc giả tương lại mơ hồ nào đó đón nhận.
Hỏi kẻ sáng tạo hôm nay, ai còn đủ tự tin và kiên nhẫn chờ đợi sự công nhận ở tương lai mơ hồ đó? Và để làm gì, cái sự tự do chờ đợi đến kiếp sau kia? Continue reading
THẾ NÀO LÀ MỘT NỀN VĂN HỌC TỰ DO 1&2
01. Tự do sáng tạo
Ở đó người viết có toàn quyền sáng tạo. Hắn đi xuống tận cùng nỗi cô đơn của sáng tạo: tầng cô đơn thứ ba. Cô đơn trước, trong khi viết, cô đơn cả sau khi tác phẩm đã ra đời.
Bước vào bàn giấy, hắn không để bị tên tuổi lớn nào đó ngáng đường qua tâm thế nhún nhường đáng thương hại. Không có Nguyễn Du hay Tolstoi, không có Kafka, Char hay Dos ở đó. Trước và sau hắn là khoảng trắng mênh mông đầy bất trắc. Mình hắn cô độc đối diện với vấn đề cùng sự mù mờ của tác phẩm sắp hình thành. Continue reading
Tôi phê bình. Bị ném đá, nhà phê bình có sợ, có nên rụt cổ không?
Theo tôi, sợ thì có sợ, còn rụt cổ thì không.
1. Thời gian qua, trong sinh hoạt văn học, người sáng tác hay có động thái tác động đến nhà phê bình khiến cho nhà này không ít lần thay đổi ý kiến về tác phẩm mình. Đây là một trong những nguyên do làm cho nền phê bình Việt Nam khó vượt qua tình trạng èo uột. Có thể mãi thế không?
Lên tiếng về Dự án Nhà máy ĐHN Ninh Thuận, tôi bị vài người quen biết đang quan văn ở tỉnh nhà xa lánh. Hội nghị cuối năm, không ai ghé tôi bắt tay, là điều chưa từng xảy ra trước đó. Các anh sợ liên lụy, tôi biết, và không trách.
Bị ‘bỏ rơi’ thế, tôi có nên thay đổi quan điểm không? – Không. Continue reading