Gs Lefèvre Vincent: Muốn nhận là thừa kế di sản cần có: Sự hiện hữu các di tích, sự hiện hữu của người thừa kế, nhà thừa kế phải ý thức nhìn nhận giá trị di sản, và họ thể hiện sự ý thức nhìn nhận đó qua việc bảo dưỡng và nghiên cứu.
Lm Nguyễn Trường Thăng: “Trong giai đoạn toàn cầu hóa mọi việc, kể cả văn hóa hôm nay, thời điểm mà các nền văn hóa lớn muốn áp đặt, chèn ép, triệt tiêu các nhóm thiểu số, nếu dân tộc Việt Nam tiếp tục suy nghĩ nông cạn bằng cách loại trừ những nhóm thiểu số tại quê hương, không nhận ra những đóng góp giá trị của các nền văn hóa đó thì tự mình làm nghèo đi di sản và không góp phần làm phong phú thêm di sản vật thể cũng như phi vật thể của thế giới”.
+
Không là nhà nghiên cứu, chuyên viên về lịch sử, văn minh, văn hóa các dân tộc sinh sống trên mảnh đất hình chữ S nầy, tôi xin mạo muội có vài ý kiến nhân cuộc đàm thoại với một nhà nghiên cứu Pháp, Regina Nether-Legrand, vào năm 2008, tại Hội An về đề tài: Ai là những người thừa kế văn hóa Chăm? Năm 2008, lúc còn làm cha quản xứ Hội An, một ngày có một phụ nữ Pháp đến thăm và muốn tìm hiểu về văn hóa Chăm mà theo cô, qua sự gợi ý của nhiều người, linh mục Antôn cũng có một chút hiểu biết. Cuộc trò chuyện thật thú vị vì cô cho biết đã sang Việt Nam mấy lần tìm tài liệu để hoàn thành một luận án về ngành Bảo tàng học. Thời gian trôi qua và một ngày tôi nhận được bản thảo luận án gồm hai tập. Cô cho biết chưa có thời gian để bảo vệ. Chắc hôm nay cô đã bảo vệ thành công. Đề tài luận án khá dài: Bảo tàng học về những bộ Sưu tầm Champa trong ba bảo tàng Việt Nam: Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam: Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng; bảo tàng Lịch sử Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Một nghiên cứu so sánh : những giai đoạn hiện đại và thời thuộc địa.
(La Muséographie des Collections du Champa dans trois musées vietnamiens: La Musée National d’Histoire du Vietnam; le Musée de Sculpture Cham de Da Nang; le Musée d’Histoire Vietnamienne de Hochiminh-Ville). Une étude comparative: les périodes contemporaine et coloniale). Trong luận án đó cô Regina Nether –Legrand có nhiều lần nhắc đến linh mục Antôn và đề cao bộ sưu tập Trà Kiệu mà cô gọi là Musée de Tra Kieu (Bảo tàng Trà Kiệu).
“Tôi cũng muốn nói vài chữ về Bảo tàng Trà Kiệu vì cái mẫu nầy xem ra đáng nêu gương…
Đây không hề là một sáng kiến mới mẻ. Những hiện vật mà người dân Trà Kiệu khi làm đất tình cờ tìm được đã hơn 20 năm rồi. Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng đã bắt đầu sưu tập chúng. Những người quy tụ quanh vùng đổ nát trong giai đoạn đầu theo như Cha Antôn nói thường là người công giáo, vì nói chung chung thì người Việt mê tín và sợ các âm hồn. Họ tránh xa áp lực của chiến tranh. Họ đã tìm gặp nhưng hiện vật Chăm nầy đang khi làm đất. Một số hiện vật đã được tặng cho Cha Antôn, số khác thì ngài mua. Đất nước lúc đó đang trãi qua một tình trạng khó khăn. Sưu tập những hiện vật nầy cũng là cách thức làm sống lại sự vĩ đại của Trà Kiệu…
Than ôi, điều kiện hiện nay của thị trường nghệ thuật ngăn cản Cha Antôn tiếp tục sưu tầm, nhưng cái bảo tàng nhỏ của Cha còn đó. Theo cha Antôn, sự độc đáo của nó chính là đời sống thường thật của người dân Champa…”
(J’ai envie de dire deux mots sur le Musée de Tra Kieu, car l’exemple me semble édifiant. Il ne s’agit nullement pas d’une initiative récente. Les premiers objets ont ete trouvés par hasard par les habitants de Tra Kieu lorsqu’ils travaillaient la terre, il y a plus de vingt ans. Le Pere Antoine Nguyen Truong Thang a commencé a les collectionner. Ceux qui dans une première phase se sont installés dans las proximités des ruines seraient surtout des catholiques, au dire du Pere Antoine, car les Vietnamiens en general sont superstitieux et ont peur des âmes. Ils fuyaient la pression de la guerre. En travaillant la terre ils ont trouvé des objets du Champa. Certains de ces objets ont été offert au Pere Antoine, il a achetés d’autres. Le pays traversait alors une situation difficile. Collectionner ces objets c’était en quelque sorte faire revivre la grandeur de Tra Kieu…
Hélas, les conditions actuelles du marche de l’art empêchent la Père Antoine de continuer sa collection, mais son petit musée est la. Sa spécifité, selon le Pere Antoine, est la vie quotidienne des habitants du Champa.)
Trong cuộc tiếp xúc hôm đó có nhiều điều thú vị nhưng chuyện so sánh giữa các bảo tàng về văn hóa Chăm xưa và nay thì linh mục Antôn không quan tâm lắm, nhưng khi nêu lên vấn đề “ai là thừa kế văn hóa Chăm”, một câu hỏi khá hóc búa, linh mục tham gia góp ý khá hăng say. Theo như cô quan sát và nhiều chuyên gia nhận xét thì hình như người Kinh nhìn văn hóa Chăm tựa một cái gì đó tuy độc đáo nhưng riêng lẻ của một nhóm thiểu số, không liên hệ gì đến văn hóa Việt (Kinh), một nền văn minh suy tàn và đã biến mất trong lịch sử. Bảo tàng Chăm hay một phần trong bảo tàng lịch sử được coi như nơi tham quan của khách du lịch, hay các nhà nghiên cứu thích đồ cổ. Một nền văn hóa đã mai một với thời gian và xem ra không có người thừa kế. Đến đây thì linh mục Antôn nhổm dậy và không đồng tình. Lúc nhỏ, linh mục hãnh diện là người Việt, về cha ông đã “mang gươm đi mở nước’ và thích thú đọc các bảng gia phả đất Quảng, tự hào với hai từ “bình Chiêm”.
Càng lớn lên, linh mục không còn hứng thú với những ý tưởng đó. Người Việt, người Chăm không có thể thay đổi lịch sử, cũng như Hoa Kỳ, Australia không quay lại sống lịch sử ba trăm năm về trước được. Tuy nhiên không nên có thái độ một chiều phóng đại, tự cao coi thường “bên thua cuộc”. Việc đại đoàn kết dân tộc, 54 dân tộc trên quê hương Việt Nam, sẽ không bao giờ giải quyết được nếu “bên thắng cuộc” cứ tiếp tục hành xử cao ngạo, khinh thường những kẻ chiến bại. Trước câu hỏi: Ai là những người kế thừa văn hóa Chăm? Linh mục Antôn đã trả lời với cô : Chúng tôi đây, cư dân Miền Trung từ Hà Tĩnh trở vào.
Tuy người Chăm phải rút lui khỏi nhiều vùng đất sau chiến tranh Chiêm Việt, nhưng không phải là toàn thể người Chăm. Nông dân tiếp tục công việc đồng áng, ngư dân tiếp tục đánh bắt, tiều phu đốn gỗ trong rừng… nhất là những nơi chiến sự không lan tới. Trước khi chiến tranh xảy ra giữa hai dân tộc, đã có người Việt sinh sống tại vùng đất Champa. Nhóm đầu là những người bị truy lùng vì lý do chính trị, hình sự phải trốn tránh hay do bị đày ải đến vùng biên cương đã đào thoát sang nước bạn. Nhóm khác xa rời quê hương vì vì lý do kinh tế, bị bắt làm nô lệ hay có máu phiêu lưu. Xa lìa miền Bắc như vậy chắc chắn họ không thể mang theo vợ con Rồi chiến tranh Chiêm Việt xảy ra vào các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn, số tù nhân hai bên có khi lên số hàng vạn, sau khi được tha, họ phải định cư tại chỗ và chuyện chồng Việt vợ Chăm ở miền Nam hay chồng Chăm vợ Bắc là chuyện bình thường, dễ hiểu. Do đó việc dân chúng miền Trung mang mình ít nhiều huyết thống Champa, hay quanh Hoa Lư cũng như Hà Nội, qua những cung nữ, tù binh, nhạc công, thợ thủ công… mà nhà Lý, Nhà Trần đưa về, “gen Chăm” không phải ít. Không chỉ là máu huyết mà còn bao chất liệu văn hóa, văn minh Chăm đi vào truyền thống Việt Nam. Về âm nhạc, vũ điệu… người ta bàn nhiều đến các điệu dân ca và cung đình Huế.
Về kiến trúc, tiếp xúc với các cổ vật gốm Champa Trà Kiệu quá nhiều, khi đến Hoa Lư lần đầu và sau đó đến Văn Miếu nhìn những viên gạch, ngói… tôi ngờ ngợ không biết phải chăng là của người Việt hay từ những thợ Chăm. Sau nầy các phát hiện tại Hoàng Thành Thăng Long càng nhấn mạnh đến ảnh hưởng Chăm trong các vật liệu xây dựng và trang trí.
Gốm sành miền Bắc sao giống quá những đồ sành trước thế kỷ 11 của Trà Kiệu. Về kỹ thuật vận chuyển đưởng sông đường biển: ghe bầu miền Trung rất khác với các con thuyền miền Bắc.
Về ẩm thực với các loại nước mắm, mắm, bánh tét, mì Quảng… dấu ấn Chăm quá rõ. Cả trong kiến trúc nhà rường, ngói âm dương, nhà tranh… trong cách gọi trâu bò v.v. ảnh hưởng Champa đâu ít.
Rồi giọng nói, ê a kinh kệ cũng có nhiều điểm tượng đồng. Tuy do ảnh hưởng tôn giáo và văn hóa Ấn Độ phía Nam và Trung Hoa phía Bắc có khác biệt, dân tộc kinh đa số ít quan tâm đến những gia sản vật chất và phi vật chất của các nhóm thiểu số nhưng tiếp tục hành xử như thế thì sẽ làm nghèo đi nền văn hóa nhiều nhóm dân tộc tích tụ từ hàng ngàn năm trên đất nước nầy.
Sau nầy trong luận án của cô Regina Legrand có ghi “Theo Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng, sáng lập bảo tàng tư nhân cổ vật Champa nhà thờ Trà Kiệu thì không chắc là những kẻ thực dân đất đai Champa đã mang gia đình theo, ít nhất là trong giai đoạn đầu tiến hành việc thực dân, vì những điều kiện khắc nghiệt. Họ đã lập gia đình khác với những phụ nữ Champa. Linh mục chắc chắn là mình có máu Chăm trong huyết quản và ước tính những ai có tổ tiên gốc gác miền Trung cũng như vậy. Những lời nầy xem ra được phóng đại, nhưng có thể dùng để cân bằng cái phiên bản chính thức của các bảo tàng Việt Nam. Theo đó thì hiện nay trên những vùng đất xưa của Champa là đại bộ phận người Việt hay Kinh, nơi đây nơi kia là những ốc đảo biệt lập của các dân tộc thiểu số, trong đó có người Chăm. Chân lý phải nằm đâu đó giữa hai thái cực nầy.”.
“Selon la Pere Antoine Nguyen Truong Thang, fondateur du musée privée d’antiquités du Champa de l”Eglise de Tra Kieu, il est peu probable que les colonisateurs des territoires du Champa aient emmenées leurs familles, du moins dans la premiere phase du processus de colonisation, car les conditions étaient rudes.Ils auraient fondé d’autres familles avec des femmes du Champa. Il est sur d’avoir du sang Cham dans ses veines et il estime que tous ceux dont les ancêtres sont issus du centre du Vietnam l’ont aussi. Ces propos sont peut – être exagéres, mais ils serviraient a équilibrer la version officielle presentée dans les musées vietnamiens, selon laquelle il y aurait actuellement dans les anciens territoires du Champa une large majorité des viêts ou khin, avec ici et la, quelques ilôts isolés d’ethnies minoritaires, dont des cham. La vérité doit se trouver quelque part entre ces deux extrêmes”.
Có thể nhiều người Kinh cực đoan sẽ không chấp nhận lối giải thích nầy nhưng qua năm tháng, giả thuyết trên càng ngày sáng tỏ. Từ những bài viết của tác giả Nguyễn Văn Xuân, cũng như nhiều nhà nghiên cứu; từ những hiện vật khai quật tại Hoàng Thành Thăng Long; từ tác phẩm “Có 500 năm như thế” của Hồ Trung Tú…; đến bài viết về Chùa Champa vùng quanh Hà Nội của ban Tôn giáo Chính phủ; chúng ta nên nhìn nhận sự thật là trong huyết quản người Việt có dòng máu người Chăm. Các cô, các cậu Hà Nội chân dài, nét đẹp thanh tú ít nhiều pha Tàu, pha Pháp; dân miền Nam cũng mang dòng máu Chân Lạp, Khmer, nhà Minh…, các dân tộc Tây nguyên cũng vậy.
Mai mốt dân Việt hải ngoại quay về đất tổ, màu mắt, màu da, vóc dáng… chắc rất đa dạng như dân Israel sau 2000 năm ly hương. Nên xem đó là chuyện bình thường, đừng kỳ thị nếu họ không đánh mất bản sắc quê hương, tự hào dân tộc. Trân trọng những nền văn minh, văn hóa đó chỉ làm giàu thêm cho văn hóa, văn minh đất Việt nầy. Không có đàn đá, trống đồng, không có cồng chiêng, đàn đáy, đàn trưng… nền âm nhạc chúng ta sẽ nghèo đi. Không có các loại váy, hoa văn thổ cẩm, vòng kiềng hoa tai các dân tộc anh em… trang phục, trang sức Việt Nam sẽ bị hạn chế. Rồi ẩm thực, rồi phong tục tập quán… hãy chọn những món ngon, cái hay cái đẹp .. chúng sẽ làm giàu cho đất nước Việt Nam.
Trong luận án của mình, cô Regina Legrand có tóm tắt ý kiến của Gs Lefèvre Vincent: muốn nhận là thừa kế di sản cần có: + sự hiện hữu các di tích; + sự hiện hữu của người thừa kế; + các nhà thừa kế phải ý thức nhìn nhận giá trị di sản. + thể hiện sự ý thức nhìn nhận đó qua việc bảo dưỡng và nghiên cứu. ( Lefevre, Vincent( 2006), Y-a-t-il un patrimoine Cham?, in: “ Cahiers de Mariemont 34, L’Art du Champa, Musee Royal de Mariemont, Morlanwelz, 2006, trích từ bài viết của Regina Legrand)
Hai điểm đầu: hiện hữu di tích, hiện hữu người thừa kế quá rõ. Về hai điểm sau: người thừa kế nhìn nhận giá trị di sản và bảo dưỡng nghiên cứu; người Việt, nhất là người Việt gốc Chăm, cần tăng cường thêm ý thức vì xem ra hiện nay đa số người Việt (Kinh) ít lưu tâm đã đành mà người Chăm chính gốc xem ra cũng hờ hững.
Trong giai đoạn toàn cầu hóa mọi việc, kể cả văn hóa hôm nay, thời điểm mà các nền văn hóa lớn muốn áp đặt, chèn ép, triệt tiêu các nhóm thiểu số, nếu dân tộc Việt Nam tiếp tục suy nghĩ nông cạn bằng cách loại trừ những nhóm thiểu số tại quê hương, không nhận ra những đóng góp giá trị của các nền văn hóa đó thì tự mình làm nghèo đi di sản và không góp phần làm phong phú thêm di sản vật thể cũng như phi vật thể của thế giới. Người dân Việt Nam và miền Trung nói riêng sao lại hững hờ, hãy can đảm thừa nhận mình là những người thừa kế văn hóa Chăm trong việc tiếp thu, bảo dưỡng và làm phong phú thêm những giá trị đã được toàn thế giới công nhận.
Bvut Đà Nẵng, ngày 05 tháng 8 năm 2014.