Như thể người từ miền tổ tông trở về
vào đầu hôm mỗi tối thứ Ba
từ đỉnh Chabbang
huýt sáo miệng
Ông
đi xuống
làng
Như thể thanh âm chưa có tên gọi
ba đời Pô Adhya đất ngàn năm này quen thuộc
vào đầu hôm mỗi tối thứ Ba
tiếng huýt sáo Ông
như thể một
dấu hiệu
Cham Hri
như thể từ đường biên bóng tối và ánh sáng, mộng và thực
bàn chân trần Ông
bước xuống
đạp lên con đường mòn quen thuộc
là một khởi động
tiếng bập bẹ đầu đời, chữ A của trang kinh đầu tiên
thức giấc và trừng trừng
nhìn lại mình
vào đầu hôm mỗi tối thứ Ba
Chabbang và Chakleng
Lên và xuống, đi hay về
ở đường biên đêm và ngày
Ông huýt sáo
một hơi gió thổi vào miền vô định
như thể sợi dây vô hình nối quá khứ, hôm nay và tương lai vô tận xa
tiếng huýt sáo Ông
đánh thức tâm thức các thế hệ người
không để làm gì cả
không cần thiết nữa có lẽ
trên trái đất lão hóa đến còi cọc này
loài người cuống cuồng lao vào ảo vọng ngu ngốc này
dúm sinh linh Cham tồn tại đầy lãng quên này
Tiếng huýt sáo Ông
đánh thức vô thức những đứa con lưu lạc
Kampong Chàm, Ban Khrua, Sulu, Kelentan, Orchid Taiwan Island
gọi dậy tên cánh đồng, con sông, ao, đầm, hồ, đập, láng, bãi bị sát hại bị lãng quên
Hamu Lanung, Krong Likuk, Ribong Kanu, Bblang Kadang, Danaw Pajien, Banơk Mưhwen, Car Jađaw
tên mảnh đất, cánh rừng nằm sâu dưới nghĩa trang chữ
Ia Mưlan, Ia Kalang, Cơk Juk, Cơk Prong, Canah Tang, Croh Daup
đánh thức kí ức
Tiếng huýt sáo Ông
vào đầu hôm mỗi tối thứ Ba
từ đỉnh Chabbang xuyên không gian vang đến ngôi làng, mái nhà, hồn người
lay dậy ham muốn của người nữ từng ghét bỏ mọi loại đàn ông
và thờ ơ và lãnh cảm
đám con gái gần nửa đời còn trinh
tràn thất vọng với bọn trai làng đã úa tàn đực tính
tiếng huýt sáo khiến chúng hứng trở lại nứng trở lại
da thịt chúng rung lên trở lại mỗi sáng trưa chiều tối
trái tim đập lạc nhịp trở lại
Như thể sứ giả sót lại của sinh linh không tuổi
Ông lưu trú ở đường biên thế giới ma và người
hoang dã và văn minh
hậu duệ các thế hệ Gru Kalơng của vương triều Champa
Cham Hri Ông
mỗi sáng thức giấc
thu vào hai buồng phổi hằng hà sa hơi thở bị đứt gẫy của thập loại chúng sinh lướt qua cõi bụi này
đứng giạng chân trên đỉnh Chabbang
Ông
hét dài một tiếng làm lạnh cả bầu trời
Ông
gọi dậy vạn vong hồn Ma Hời bị tên lạc, voi giày, hổ vồ, rắn hổ mang mổ nơi khuất núi cuối lũng còn làm lang thang
triệu oan hồn ma Việt chết trận, chết tù, chết kinh tế mới, chết vào bụng cá hay bị hải tặc các loài
Ông
tụng to trăm Damnưy đã hay chưa được viết được ngâm được
hát lên
giải oan cho cuộc biển dâu này
Ông là Cham Hri
cụ cố dòng họ bảy đời Cù lao Chàm biết tên Ông
bà lão làng Quan Họ Bắc Ninh quen mùi Ông
cụ ông Êđê rừng già Buôn Đôn nhớ khuôn mặt Ông
nhà tu khổ hạnh ẩn thân đồi Nha Trang không quên hàng lông mày rậm Ông
nhà thơ Pa-dí dân hai ngàn người Pờ Sảo Mìn là bạn thân thiết Ông
lũ chó mực già phum Khmer miền Tây quen hơi Ông
và chúng hú
và chúng tru
hòa tiếng huýt sáo Ông
hú tru hát vào những khoảng trống trần gian…
Chakleng, 4:21, ngày 15-8-2021
_____
Chú thích:
Chabbang: tên ngọn núi nằm hướng nam cách làng Chakleng mươi cây số nơi ngụ cư của nữ tu Pô Nai; Pô Adhya: cả sư Cham Bà-la-môn; Gru Kalơng: thầy pháp; Kampong Chàm (Cambodia), Ban Khrua (Thái Lan), Sulu (Philippines), Kelentan (Malaysia), Orchid Taiwan Island (Đài Loan): các vùng đất ở Đông Nam Á người Cham di cư đến và sinh sống; “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư: Kêu dài một tiếng lạnh cả bầu trời”: thơ Không Lộ thiền sư; Damnưy: tụng ca, một thể loại văn chương bình dân Cham; “giải oan cho cuộc biển dâu này”: thơ Tô Thùy Yên.