Hôm qua, vị sư Ấn Độ giáo quỳ lạy đạo sĩ Minh Tuệ, là điều chưa từng.
Triết học Bà-la-môn phân đẳng cấp xã hội làm 4: [1] Tu sĩ hay Bà-la-môn, [2] Vua chúa, quý tộc, chiến binh, [3] Thợ thủ công, thương nhân, nông dân, và [4] Đẳng cấp nô lệ, bộ phận người dưới đáy xã hội.
Lối phân chia đó còn ảnh hưởng đến Cham ngày nay. Pô Adhya Cả sư đẳng Bà-la-môn tuyệt không lạy ai! Dù đó là vị vua Champa đã được thần hóa, như Pô Klong Girai, Pô Rômê… vì ở thẳm sâu ông vẫn nghĩ mình đẳng “cao” hơn các vị ấy.
Sự thể đủ thấy sức lan tỏa của năng lượng giác ngộ Minh Tuệ thế nào. Tại sao?
+
Tôi từng gọi ông là “đạo sĩ Minh Tuệ”, một “Biểu tượng”, một “Cận-Alahán”, và hôm nay thêm: “Nhà sư Hậu hiện đại”!
Tư tưởng “trung tâm” của Hậu hiện đại là phi tâm hóa. Minh Tuệ giải trung tâm từ: Chính trị – cứ xem người Việt trong và ngoài nước, hay vùng miền – “bắc nam” nhìn nhận ông cũng đủ biết; sang Dân tộc: Việt Nam, Lào, Thái Lan, Malaysia, và còn nữa; qua Tôn giáo, từ Đạo Chúa, Bà-la-môn, Ấn Độ giáo, đến cả Muslim cũng tỏ sự trân quý hạnh tu của ông.
Bước chân ông đi đến đâu, bức vách ngăn trung tâm và ngoại vi gẫy đổ đến đó. Dân bàn giấy với giới nghệ sĩ, anh khoa bảng với chị công nhân, chính khách với học giả, doanh nhân nhiều tiền cùng kẻ lang thang cơ nhỡ, và mọi mọi sinh linh khác.
Phi tâm hóa, ông tôn trọng sự khác biệt đến vô phân biệt. “Họ đều là cha mẹ, anh em con”, nói lên sự thể đó.
Ông không trụ chùa to, ngồi đài cao hay ẩn vào rừng sâu, mà bước đi giữa chợ đời.
Minh Tuệ phi tâm hóa đến từng chi tiết sống.
Ở – ông có thể ở cốc hay chùa, nhưng bởi là nhà sư Hậu hiện đại, ông nghiêng về phía ngoại vi: nhà hoang hay nghĩa địa…
Ăn mặc – ông vô phân biệt sạch hay dơ; và cũng như thế, ông ưa đồ thừa, thứ bị bỏ đi hơn.
Ngôn từ, giữa sang trọng và bình dân, ông thiên về bình dân, dù – khi cần thiết ông vẫn có thể sang trọng, “chiếc lá rơi từ vô minh” là một.
Cuối cùng, ông hành động đúng châm ngôn Hậu hiện đại: “Suy tư toàn cầu, hành động cục bộ”. Ông không lo cho cả thế giới, mà “con đi tu cho con”. Và chính từ hành động cục bộ này, khi thành, sẽ tác động ngược lại đến thế giới rộng lớn, như hôm nay ta đang thấy.
Ông trung dung mà thừa quyết liệt, quyết liệt nhưng không tranh hơn thua với đời. Câu chuyện:
Hỏi: Thầy có còn cơ hội nào đi Ấn Độ với anh Báu không? Trả lời: Nếu thế giới này không còn ai tu Phật, con sẽ đi với thầy Báu”.
Quyết liệt là vậy, nhưng không tranh hơn thua. “Con xin thầy tha cho gia đình con, con còn có vợ con, mẹ già…”. Bị đẩy vào thế chông chênh kiểu ấy, thường thì ta vặn lại: “Ông có đưa ra được bằng chứng không?”, hay cao tay hơn: “Con không làm gì, nếu thầy Báu bảo thế thì con xin lỗi”; ở đây ông đáp trả như có như không: “Dạ, con xin sám hối”. – Siêu!
Từ khi thành hiện tượng, đến hôm nay, nhà sư Hậu hiện đại này đã như thế. Và tôi tin, ông sẽ mãi như thế.