Ramưwan năm nay, Phước Nhơn đang tư thế tối Văn nghệ lớn, bỗng mưa to ập tới, và kéo dài: tạm nghỉ. Mưa bất thình lình, vài người đổ cho tại lễ hội chính [còn quen gọi là Tết Bà-ni], mà băng-crôn vắng bóng Akhar thrah!
Xuan Bao có viết về vụ này, thấy không ai nhúc nhích, mới nhắc khéo tôi cei viết mới “si-nhê”. Tôi ậm ừ, rồi cho qua đến tận hôm nay.
Tôi được cho là sinh linh Cham hoạt động về ngôn ngữ mẹ đẻ sớm, dài lâu, năng động và toàn diện. Câu chuyện đã được kể đăng 6 kì: “Inrasara, Akhar thrah, và…” ở Inrasara.com, 7-2013. Ý là tôi nắm được toàn cảnh nỗi Akhar thrah, từ chính cho đến ngoài lề.
Tại sao tôi từ chối vụ này? – Đơn giản, tôi đã bước qua giai đoạn “bổn phận tam chúng” để lên tiếng, mà chỉ có thể suy tư phổ độ chúng sanh.
Suy thế nào? – Cham quý chữ, kính chữ, và sợ chữ; mất gì thì được, chớ Cham tuyệt không để mất chữ. Truyền thống giáo dục Cham, nam Cham phải biết chữ; chết đi quý thầy còn “đè’ ông ra xóa mù chữ nữa là.
Truyền thống ấy hiện vẫn tồn tại, lễ lạt các palei Cham luôn có hàng Akhar thrah song hành bên cạnh chữ phổ thông. Vậy, hà cớ palei Pabblap Birau Phước Nhơn 1@3 làng to nhất Cham lại vắng mặt Akhar thrah ở Ramưwan!
Điều đáng suy tư hơn nữa, là hiếm ai lấy đó làm ngạc nhiên!!
+
P.S. Phụ lục quan trọng
VỀ HOẠT ĐỘNG AKHAR THRAH CỦA TÔI
1. Khởi động
4 tuổi, tôi đã được ông ngoại [cha của cha] dạy cho biết chữ Cham. Cùng thời điểm, ông còn dạy tôi thuộc nằm lòng trường ca nổi tiếng và khó hiểu nhất trong kho tàng văn chương dân tộc: Ariya Glơng Anak.
Tiểu học, thế hệ chúng tôi được học chữ Cham bữa đực bữa cái. May, ở đó tôi có thầy Hiệu trưởng Quảng Đại Hồng sính thơ. Ông làm nhiều bài thơ tiếng Cham, ông đọc khoe một lần, và tôi thuộc.
15 tuổi, ở Pô-Klong, lớp chúng tôi có báo tường lấy tên Nguyện, ở đó tôi đăng bài thơ chữ Cham đầu tiên. Thời gian đó, ngoài bày cho vài bạn học biết chữ mẹ đẻ, tôi còn dịch các ca khúc Việt ra tiếng Cham.
Cũng từ đó, tôi tập nói rặt ‘harat’ tiếng mẹ, để sau này dạy mấy đứa con tôi làm như thế, nghĩa là ít độn nhất có thể.
2. Nhập cuộc
18 tuổi, “Giải phóng” – các anh chị em các nơi dồn về quê, tôi mở khóa chữ Cham cho 70 học viên. Để phục vụ việc dạy, tôi soạn Tự học tiếng Cham và viết 2 trường ca và mươi bài thơ.
Vào Sài Gòn, đám sinh viên chúng tôi ra ấn phẩm Jalan tal Vijaya, tôi viết lời tựa bằng thơ cho đặc san này.
25 tuổi, Ban Biên soạn sách chữ Chăm mời tôi làm việc. Việc chính là kế toán, việc phụ: phụ trách tờ báo cho Ban do chính tôi bày. Báo ra 1 kì, rồi chết! Năm cuối ở Ban, tôi diễn trình bản thảo Tự học tiếng Cham chuẩn bị in, thì bản thảo bị Nhà xuất bản Giáo dục làm… thất lạc!
Rời Ban Biên soạn về, năm 1989 tôi có buổi nói chuyện ở Chakleng về bản thảo: Từ vựng học tiếng Cham trước 20 vị thuộc giới chữ nghĩa Cham.
3. Ở bờ bên kia cuộc chiến
35 tuổi, Đại học Tổng hợp mời tôi vào làm việc. Ban đầu là soạn Từ điển Cham Việt, sau thêm cuốn Từ điển Việt Cham. Năm 1995, Đại học in cuốn: Tự học tiếng Cham.
Rồi Bộ Giáo dục giao cho tôi phụ trách soạn Từ điển Việt Cham dùng trong Nhà trường, sau đó anh Ysa Cosiem tài trợ làm Từ điển Việt Cham bỏ túi.
Ở “Trung ương” tôi sắm vai thẩm định sách giáo khoa Ngữ văn Cham.
Truyền bá tiếng và chữ mẹ đẻ, tôi còn có loạt bài Tiếng Cham của bạn trên Inrasara.com. Song hành với nó, tôi cho đăng nhiều bài thơ tiếng Cham trên Tagalau.
– Sáng tác. Đã in chung và riêng 2 thi phẩm tiếng mẹ đẻ, cạnh đó tôi còn tồn kho hàng trăm bài thơ khác.
– Dịch. Dịch xuôi hàng ngàn trang Sử thi, trường ca Cham, tục ngữ ca dao; Agal và Danak; Kinh Thánh Tân ước và 2 chương Cựu ước; hơn 10 ấn phẩm Nhà nước liên quan đến Pháp luật; hàng chục ca khúc tiếng Anh, Pháp…
Dịch ngược nhiều bài thơ của bạn thơ Cham.
– Thuyết trình [không phải dạy] cho nhiều đối tượng khác nhau.
Vậy là với ngôn ngữ mẹ đẻ, tôi đi từ dạy đến sáng tác, từ soạn Từ điển đến viết sách, từ dịch đến nghiên cứu, từ tổ chức cho đến thuyết giảng; sinh linh Cham vậy đó mà từ chối tham gia vào “Chiến trường Akhar thrah”, mới lạ!