Là tít báo Tiền Phong Chủ nhật đặt cho bài phỏng vấn tôi, do nhà văn Lê Anh Hoài thực hiện, ngày 29-11-2009.
Trước đó dăm năm tôi đã một lần đề cập, rồi hôm qua, Hội thảo 100 năm Nhà thơ Nông Quốc Chấn, tôi lần nữa xin phép “lạc đề” nói qua(*). Tại sao? Tôi có mang tâm phân biệt không? Tôi biết nhiều nhà văn DTTS than phiền, rồi ngưng tại đó, không nửa lần lên tiếng, tội thế chứ.
Có gì ghê gớm đâu mà ngại?!
Người dân tộc thiểu số làm thơ bằng tiếng Việt, đòi hỏi bản sắc và sáng tạo, dân tộc mà hiện đại là điều cực khó. Tài hoa được như Y Phương là ca hiếm, vô cùng hiếm. Mà phải quá độ một thế hệ, anh mới đạt được.
Chớ trước đó, nhà thơ Nông Quốc Chấn, “lá cờ đầu” người dân tộc thiểu số viết bằng tiếng Việt đã phải dò dẫm từng bước đi chập chững.
Ngay cả Cham sống xen cư ở vùng đồng bằng chung với Việt mà ở thời Pháp thuộc – cùng thời với Nông Quốc Chấn, các cây bút Cham làm thơ tiếng Việt như Thiên Sanh Cảnh, Lưu Quý Tân cũng mày mò, so với Tày còn kém xa về độ nhuyễn.
Hiện nay dù có tiến bộ hơn nhiều, sánh với bạn thơ người Việt thì các cây bút thơ DTTS vẫn có độ chênh nhất định.
Mươi năm trước, vấn đề trên được tôi phân tích đăng vài báo, rất được độc giả ủng hộ. Là chuyện thuần chuyên môn, nhất là khía cạnh “ngôn ngữ thơ”. 14 năm qua, tình trạng vẫn chưa thay đổi.
Năm nay 2023 cũng hệt. Về thơ, 19 tập thơ dự giải chỉ có ¼ là của tác giả DTTS. Phần tôi đề cử 4 “giải” mà có đến 3 là tác giả người Việt. Mà nếu không nương tay – do ưu ái sáng tác song ngữ, ngay 1 DTTS này cũng không đạt. Buồn là vậy.
Vậy nên, Giải thưởng Hội VHNT-DTTS nên dành riêng cho tác giả người dân tộc thiểu số. Còn tác giả người Việt là Hội viên viết về chủ đề Dân tộc & Miền núi, nếu đó là tác phẩm xuất sắc, Hội dành cho Tặng thưởng đặc biệt, mỗi thể loại một tác phẩm.
P.S.
(*) Nguyên văn:
Thuở sinh thời, tôi có bàn với cụ Chấn, phần Giải thưởng thường niên của Hội chỉ nên dành riêng cho nhà thơ DTTS. Còn các bạn thơ người Việt là Hội viên nếu có tác phẩm về đề tài DTTS và miền núi thực sự xuất sắc, ta có Tặng thưởng đặc biệt. Còn lại, các bạn cứ mang “đứa con tinh thần” qua sân chơi lớn hơn ở Hội Nhà văn Việt Nam.
Như cá nhân tôi, một nông dân Cham vô danh tiểu tốt, chưa có thơ đăng báo, vậy mà ngay khi cho ra đời tập thơ đầu tay, tôi tự tin qua bên đó và đoạt giải thưởng của Hội chuyện nghiệp! Chứ các bạn Hạng nhất mà đi tranh giải với đội Bán chuyên thì rất khó coi, nếu không muốn nói là thiệt thòi cho người anh em.
Cụ Chấn nghe, và hứa sẽ bàn kĩ. Tiếc thay sự thể chưa tới đâu thì cụ mất, và vấn đề đành bỏ lửng.
P.S. (*)
Trích: NÊN DÀNH RIÊNG CHO TÁC GIẢ NGƯỜI DÂN TỘC
Tiền Phong, 29/11/2009.
– Giải thưởng năm nay có một điều lạ: Trong 3 giải cao về thơ thì có tới 2 giải lại do tác giả không phải người dân tộc thiểu số đích thực đoạt được, lĩnh vực truyện ngắn tình hình cũng tương tự. Anh có thể lý giải điều này? Phải chăng điều này vi phạm quy chế của Hội, hoặc ít nhất cũng tạo cái nhìn khác thường về giải?
Inrasara: Chẳng có gì lạ cả, bởi lâu nay không ít hội viên là người dân tộc đa số đoạt giải. Càng không vi phạm quy chế nữa. Vì Hội kết nạp cả nhà văn, nhà thơ là người Kinh chứ không chỉ kết nạp người dân tộc thiểu số mà nguyên tắc là mọi thành viên trong gia đình Hội đều được đối xử công bằng và sòng phẳng, không phân biệt. Tiểu ban thơ của Hội đồng nghệ thuật khi bỏ phiếu cũng không chú ý đến thành phần dân tộc.
Có lẽ năm nay các hội viên là người dân tộc đa số gửi nhiều tác phẩm dự giải hơn chăng? Nguyên nhân nữa, viết tiếng Việt (nhất là với thơ) – nhìn từ mặt bằng chung- thì cây bút người Kinh nhuyễn hơn các đồng nghiệp người dân tộc thiểu số là cái chắc! Và, kết quả như đã biết thì khá lạ – tạo nên sự “khác thường” – như cách nói của anh.
– Như vậy, ở đây có một căn nguyên của “điều lạ”, đó là: Hội VHNT DTTS chỉ chấm giải văn chương của người dân tộc thiểu số viết bằng tiếng phổ thông?
Đúng thế, ở ta chưa có việc chấm giải cho thơ (và tất nhiên, cả văn xuôi) của người dân tộc thiểu số viết bằng chính thứ tiếng mẹ đẻ của mình. Trong khi đó, có không ít các tác giả vẫn lặng lẽ, cần mẫn sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, mà không có một hệ thống giải thưởng – đồng nghĩa với sự quan tâm một cách chính thức – tới họ và những sáng tác này.
– Nếu đây là một bất cập, theo anh cần làm gì để khắc phục, đứng từ Hội VHNT DTTS? Đứng từ phía các cơ quan có trách nhiệm khác? Đứng từ phía những người sáng tác?
Inrasara: Không hẳn “bất cập” mà có cái gì đó lấn cấn. Nhưng khi nhận ra sự lạ này, tôi đã có nêu vấn đề ra ngay trong phiên họp Ban Chấp hành Hội ngày 23/11/2009 tại Hà Nội vừa qua, các ủy viên Hội đều nhất trí cao về tinh thần “công bằng và sòng phẳng”.
Cái lý ở đây là “Tôi hội đủ yếu tố để các bác kết nạp tôi, tôi viết về đề tài dân tộc, tác phẩm tôi có chất lượng,… tại sao tôi không được trao giải cơ chứ?”. Suy đi tính lại thế nào cũng lấn cấn. Với Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, tôi hoàn toàn phản bác thái độ châm chế hay ưu ái có tính đến yếu tố dân tộc, nhưng với Hội VHNT các Dân tộc thiểu số thì khác.
Hiện trong số 820 hội viên của Hội có 335 người dân tộc Kinh. Có lẽ sắp tới BCH Hội cần có vài suy nghĩ chín hơn và đưa ra quyết sách đúng đắn về vấn đề tế nhị này.
– Từ lâu, có hiện tượng, nhiều nhà văn, nhà thơ sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đã yêu văn hóa, văn nghệ của cộng đồng này, và đã có những sáng tác mang âm hưởng, sử dụng các hình tượng, cách diễn đạt, thậm chí cách tư duy của đồng bào dân tộc thiểu số? Đây có thể coi là sáng tác loại nào? Anh nhìn nhận hiện tượng này ra sao?
Inrasara: Nhận ra hiện tượng đó, nên BCH Hội xét giải hay xét đầu tư cũng dựa trên các “tiêu chí” này. Tạm loại ra ngoài các cây bút người Kinh giả vờ dân tộc hay gắng gượng nhỏ vài giọt dân tộc vào tác phẩm rồi kêu là có viết về đề tài dân tộc hay cách nói dân tộc, còn lại rất nhiều người viết nhuyễn cách nghĩ và diễn đạt “dân tộc” có khi còn hơn cả cây bút dân tộc thiểu số chính bản nữa.
Theo cá nhân tôi, Hội nên dành Giải thưởng đặc biệt cho bộ phận này. Ít ra với các tác phẩm sáng tác thuộc thể loại thơ và văn xuôi. Ai dám bảo Chế Lan Viên hay Văn Cao đã không đóng góp gì vào sự soi rọi tâm hồn hay tinh thần Chăm? Giả thử hai vị này là hội viên Hội VHNT DTTS, và nếu họ gửi tác phẩm dự giải, ai dám không trao giải cho các vị?
Giải thưởng đặc biệt có mặt là cần thiết. Còn lại, theo tôi hệ thống giải chính thức chỉ nên “dành riêng” cho người viết là người dân tộc thiểu số.
– Ngược lại, nhiều nhà văn, nhà thơ vốn là người dân tộc thiểu số, nhưng lại sớm hòa nhập với văn hoá của quốc gia, của quốc tế. Sáng tác của họ, ít thậm chí rất ít tính dân tộc, tính địa văn hóa – nơi mà họ sinh ra và lớn lên. Anh nhận định về vấn đề này ra sao?
Anh cũng là một nhà thơ, nhà văn có cả hai mảng sáng tác: một, mang âm hưởng truyền thống dân tộc Chăm rất rõ nét, nhưng lại có một mảng thứ hai mang đậm tính đương đại, hậu hiện đại, với ngôn ngữ, cách biểu đạt hoàn toàn mới, anh sẽ nói gì?
Inrasara: Tôi ủng hộ vô điều kiện cây bút là người dân tộc thiểu số dám phiêu lưu khám phá những chân trời mĩ học mới, lối viết mới. Càng khoái hơn khi họ dám và biết giải “dân tộc” hóa, giải địa phương hóa trong cách nghĩ và sáng tạo của mình. Nếu họ sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ thì hay hơn nữa.
Tôi đánh giá một tác giả ở cái tầm. Rằng bạn đã đâm rễ sâu xuống vùng đất văn học và ngôn ngữ dân tộc chưa? Đã tự trang bị căn bản tri thức về nền văn học tiên tiến trên thế giới chưa? Trả lời hai câu hỏi đó, người viết có thể thể hiện thoải mái mà không sợ mất bản sắc dân tộc.
Khi đó “dân tộc” và hiện đại đi vào nhau thong dong vô ngại, để bật lên cá tính sáng tạo mới của mỗi tác giả, bản sắc mới mỗi dân tộc, góp phần làm đa dạng nền văn học đa dân tộc Việt Nam.
– Một câu hỏi mang tính riêng tư: Dễ thấy năm nào anh cũng có vài tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau, nhưng trong danh sách giải thưởng vài năm qua không có tên anh, hay anh đã không tham gia dự giải?
Inrasara: Từ khi tôi bị bầu vào Ban chấp hành Hội, tuyệt đối tôi không tham gia dự giải. Ai lại thế kia chứ, kì chết! Ngài ngồi thù lù đó, anh chị em không bỏ phiếu cho ngài thì còn bỏ cho ai? Mà cho hạng thấp, ngài có chịu không? Nhất là với người phương Đông sống duy tình đầy nể vì. Người dân tộc thiểu số thì càng như vậy.
Năm nay tôi chỉ xin đầu tư, mà riêng về công trình khoa học. Nghĩa là thể loại có thể cân đong đo đếm tương đối chuẩn xác, chứ không đầy chất “vô bằng” như thơ văn.
Trân trọng cảm ơn anh!