Ở buổi nói chuyện, tôi có điểm qua vài tên tuổi là đứa con Ninh Thuận từ rất sớm, trước cả tuổi bẻ gẫy sừng trâu – rời bỏ quê hương để thành danh nơi đất lạ, và hiếm khi trở về. Đến nỗi tại hội trường này, nêu tên ra ít ai biết họ là người nhà. Tại sao?
Ta có thể đi và trở về, được không? Hay cứ trụ lại và nổi tiếng ngay quê hương?
Châm ngôn hậu hiện đại: “Suy nghĩ toàn cầu, hành động cục bộ, địa phương.”
Bạn rêu rao hòa bình thế giới, còn với kẻ xóm giềng bạn hục hặc ngày qua ngày; bạn kêu đòi bảo vệ môi trường trái đất trong khi bạn thoải mái xả rác ra đường… đích thị bạn chỉ là một tình nhân giả.
Tóm, bạn chưa hậu hiện đại. Hậu hiện đại – bạn vừa thưởng ngoạn đường bóng của Maradona, Zidane vừa yêu Tâm, Chấn; vừa thưởng văn Nguyễn Bình Phương, thơ Nguyễn Quang Thiều “trung tâm” vừa đọc Nguyễn Kim Hòa, Lê Hưng Tiến “ngoại vi”.
1. Lần đầu tiên được mời phát biểu tại Đại hội Phân hội Văn học Ninh Thuận, 29-7-2019, tôi nói ngắn:
“Văn học, từ chính sách đến tổ chức, từ quản lí cho đến hoạt động, đích cuối nó nhắm đến là tác phẩm. Chính xác hơn, chất lượng của tác phẩm. Tạm nêu tạp chí Văn nghệ Ninh Thuận.
Mươi năm trước, nhà văn Xuân Thông “xin hỏi thiệt, Sara có đọc tạp chỉ mình không?” Tôi nói, tôi là nhà phê bình, tôi không thể không theo dõi toàn cảnh văn học tiếng Việt; tôi thích cái lạ, ở đó sáng tác tỉnh lẻ là một; nữa, khi tỉnh lẻ đó lại là tỉnh nhà.
Tình thật và nói thật, bởi đa số cây bút khi thoát khỏi lồng nhỏ hẹp, ít khi ngoái lại. Ngoái nhìn nếu có, là do tình cảm, tôi thì khác – vì nghệ thuật của bạn văn quê hương.
Qua quan hệ, tôi biết tiềm năng của họ, tôi kì vọng, rồi thất vọng – rõ nhất ở tạp chí văn nghệ. Cả sau khi có tổng biên tập mới, dường rất ít thay đổi. Thử hỏi, một học sinh cấp III cầm trên tay tạp chí văn nghệ tỉnh nhà, các bạn nhận được gì? Rất ít! Thế giới đã là làng toàn cầu, nhiều cái khác hiện ra trước mắt họ, độc đáo hơn, thú vị hơn. Lẽ nào ta cứ mãi ở trong tình trạng “Văn nghệ Đồng Nai bài ai nấy đọc”?”
2. Con người, Ninh Thuận là mảnh đất “mới” của Việt Nam, đã nẩy sinh nhiều tài năng lớn.
Nguyễn Văn Thiệu, sinh năm 1923 tại làng Tri Thủy, tổng thống Đệ Nhị Cộng hòa. Chế Linh, sinh 1942 tại làng Cham Hữu Đức, thuộc nhóm “tứ trụ nhạc vàng” thời kì đầu. Đỗ Quang Em, sinh 1942 (không có thông tin về làng), họa sĩ có tranh thuộc hàng đắt nhất nước. Nguyễn Đức Sơn, sinh 1937 tại làng Dư Khánh, là một trong ba kì nhân của làng thơ Việt Nam trước 1975. Họ thuộc hàng quái kiệt.
Rồi Từ Công Phụng, sinh 1942 tại làng Cham Văn Lâm – một trong những nhạc sĩ tiêu biểu cho tân nhạc Việt Nam trong thập niên 1960-70. Thêm nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, Guitar Vô Thường.
3. Bỏ qua thế hệ tôi, hay diễn viên điện ảnh Thương Tín – sau 1975, có đến chục đứa con Ninh Thuận thể hiện rõ văn tài ngay khi xuất hiện. Tại sao chỉ có ba là ở lại: Lê Hưng Tiến, Kim Hòa, Khánh Liên; còn thì họ bay đâu mất? Nhất là, hà cớ họ một đi không trở lại? Nguyễn Vĩnh Nguyên, Tuệ Nguyên, Jalau Anưk, Thuan Vuong TranThục Linh, Kiều Maily, Lưu Mêlan.
Đó là “một lực lượng hùng hậu”, nếu ta muốn dùng từ này. Sao ta không tham vọng sánh ngang, hay vượt mặt Sông Hương, Cửa Việt, Đất Quảng? Ta không gom vào mà lại đẩy ra, là sao?
Sinh hoạt chuyên môn nữa. Chớ vội kêu hội thảo hao tốn tiền dân, ngay tổ chức bàn tròn văn học thôi, ta cũng chưa. Kim Hòa được giải nhất tạp chí Văn nghệ Quân đội, ta có thử làm bàn tròn về? Để xem nó hay thế nào, độc đáo đến đâu? Ta in 40 năm Thơ Ninh Thuận để phát hành tặng, và chìm. Có thể không, ta làm bàn tròn về tổng tập của non nửa thế kỉ thơ kia, để biết nó đứng ở đâu trong tiến trình thơ Việt đương đại?
Vẫn là những câu hỏi bỏ ngõ…