Hiền Hòa thực hiện, 6-2012
* Tại hội thảo khoa học Văn học Hàn Quốc, cuối 2013.
Thuyết trình, thảo luận vốn là hoạt động bình thường, nhưng chủ đề mà nhà nghiên cứu – nhà thơ Inrasara chọn lại đủ sức gây tò mò với những ai quan tâm đến văn hóa Việt Nam nói chung. Đó là chủ đề “Người Cham đóng góp gì vào nền văn hóa đa dân tộc Việt Nam?”, diễn ra lúc 8g30 ngày 28-6 tại Tòa nhà PACE (341 Nguyễn Trãi, Q.1, TP.HCM). Để độc giả xa gần có thể hiểu thêm về một dân tộc lớn và nhiều thăng trầm, chúng tôi có cuộc trò chuyện với Inrasara.
“Với tâm hồn vốn ham chơi, ham sáng tạo, nếu biết tiếp nhận truyền thống ông bà, người Cham hôm nay sẽ làm nên nhiều cái mới mẻ và giá trị. Trước 1975, 30 ngàn dân Cham Ninh Thuận đã “đóng góp” hai khuôn mặt sáng giá cho tân nhạc Việt Nam: Chế Linh và Từ Công Phụng. Sau khi đất nước thống nhất, Cham có thêm nhà văn, nhà nghiên cứu… Đó là chưa kể đến các đóng góp của những người vô danh, qua các lễ hội, qua phong tục tập quán rất đặc thù”, mở đầu câu chuyện, Inrasara khẳng định.
Câu hỏi quyết liệt hơn
Thưa anh, xin được hỏi ngay, anh dựa trên cơ sở nào để đặt ra chủ đề này?
– “Người Cham có đóng góp gì vào văn hóa dân tộc Việt Nam?”, là câu hỏi mang tính đánh động. Nói nôm na, nó mang tính mở, và quyết liệt. Nó không hiền lành theo hướng “nghiên cứu” mang tính thống kê các thành tố văn hóa Cham, càng không vuốt ve có tính cách an ủi… Tiêu đề hàm ý không nên từ ngoài nhìn vào, trên ngó xuống, mà ý hướng đưa cả diễn giả và thính giả “đi vào trong”, trực diện với vấn đề. Đó chính là câu hỏi tôi tự đặt ra cho mình để đi tìm câu trả lời thích đáng.
Câu hỏi này có bắt nguồn từ tinh thần sáng tạo của Cham và những thành tựu ở quá khứ?
– Người Cham tiếp nhận văn hóa Ấn giáo, nhấn mạnh vào Shiva – biểu tượng cho sự phá hủy. Cần hiểu phá hủy ở đây là phá hủy để sáng tạo, phá hủy cho sáng tạo, và phá hủy chính là sáng tạo. Tiếp nhận nghệ thuật Ấn Độ, sau đó Cham biết qua tận Java, Indonesia hay Khmer… để thâu thái. Thâu thái, Cham đã biết cách “phá hủy” và làm mới theo kiểu của mình. Hàng trăm ngôi tháp [hiện hữu] với ít nhất bảy phong cách khác nhau nói lên tinh thần đó. Các sử thi [đã được văn bản hóa], các trường ca trữ tình, thơ triết lý, gia huấn ca, ca múa nhạc… là những thành tựu lớn và độc đáo không thể chối cãi. Đặt vào bối cảnh hiện nay, câu trả lời mãi còn bỏ ngõ, nhưng ít ra, nó nhắc cộng đồng Cham, đặc biệt giới trẻ, tiếp tục tìm câu trả lời.
Nhân anh nói đến giới trẻ, theo anh, dấu ấn văn hóa Cham trên đất Việt nên được nhìn qua các biểu hiệu cụ thể nào?
– Xưa, Champa và Đại Việt chung biên giới, dấu ấn hình thành tư giao lưu và xung đột; rồi khi Champa tan rã để hòa nhập vào đất Việt, dấu ấn Cham để lại khá đậm nét, suốt từ Bắc vào Nam. Chùa Đinh Xá (ở xã Đinh Xá, huyện Kim Bảng, Hà Nam); “làng có chùa Bà Đanh” – một làng có nguồn gốc lịch sử là của tù binh Cham; tháp Bảo Thiên ở hồ Hoàn Kiếm là do tù binh Cham xây dựng… Rồi chim thần Garuda, mukhalinga rải rác trên điêu khắc Việt. Về âm nhạc, “Chiêm Thành âm” từng làm rúng động triều đình Lý Cao Tông (1202); rồi dân ca quan họ Bắc Ninh; nam bình nam ai; hát bả trạo; bài chòi…, ít nhiều đều chịu ảnh hưởng âm nhạc Cham. Đó là chưa kể ngôn ngữ và văn chương, người Cham đã làm giàu thêm kho tàng tiếng Việt không ít.
Cham, cũng nhiều loại
Với người Việt nói chung, thấy người Cham ở rải rác nhiều nơi, vậy bản sắc và dấu ấn của họ có giống nhau không?
– Suốt chiều dài lịch sử, người Cham thiên di rộng và nhiều lần. Họ tạo lập ít nhất mươi cộng đồng khác nhau, ảnh hưởng các nền văn hóa bản địa khác nhau, qua đó hình thành nên văn hóa cục bộ, từ đó mới có khác biệt nhất định so với nền văn hóa gốc. Nghiên cứu về người Cham, câu hỏi đầu tiên phải được đặt ra là: Cham nào? Cham Bà-la-môn ở Phan Rang hay Cham Bà-ni ở Campuchia? Cham Islam ở Sài Gòn, “Cham” Quảng Nam hay Cham Hroi ở Phú Yên?… Hơn thế nữa, “Cham đang ở đâu?” còn nhắm vào cộng đồng Cham, và nhất là cộng đồng Việt (Kinh) nhìn lại lai lịch mình, qua đó khả thể làm cuộc hóa giải lịch sử và hòa giải dân tộc.
Hình như dòng họ anh thuộc Cham Pangdurangga, tính cách của Cham này có gì đặc biệt?
– Ngang bướng, đó là điểm nổi bật nhất. Một thứ ngang bướng có truyền thống. Suốt lịch sử Champa, nhân dân khu vực này đã từng nổi dậy chống lại chính sách bất công của triều đình trung ương. Hãy tưởng tượng, khi chúa Nguyễn chiếm cả miền Tây rộng lớn, người Cham vẫn còn giữ Pangdurangga, gồm Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay. Tây Sơn, sau đó là nhà Nguyễn vẫn còn dành cho Cham cơ chế tự trị. Khi vua Minh Mạng muốn tóm thâu mọi quyền lực về mình, Cham đã nổi loạn và chiến đấu đến người cuối cùng. Thất bại, họ lẩn vào trong núi. Đến khi vua Thiệu Trị xuống chiếu kêu họ xuống, Cham mới trở lại. Lúc đó người Cham ở Ninh Thuận chỉ còn vỏn vẹn 6.000 người.
Những thách thức của người Cham hôm nay thuộc về điều gì?
– Thuộc về tinh thần là chính. Qua một thế kỷ, dân số Cham Pangdurangga tăng gấp 10 lần. Dù sống ở miền đất khô cằn, gió nhiều, mưa ít… cộng đồng này đã vươn lên mạnh mẽ. Thế nhưng, khi môi trường xã hội nông thôn bị phá vỡ, khi những “đứa con của Đất” tràn vào thành phố lớn kiếm sống, mỗi lần về quê là mỗi lần họ mang “cái lạ” về làng: lối ăn mặc lạ lẫm, cách cư xử lạ đời, nhất là các ngôn từ lạ hoắc. Thế là có xung đột, xung đột với các thế hệ hãy còn chưa xa.
Nhìn rộng và xa hơn, khi “10 loại Cham” ngày càng phân tán, họ tiếp cận với nhiều nền văn hóa khác nhau hơn nữa, điều gì có thể kết hợp họ lại, để họ vẫn có thể nói tiếng mẹ đẻ và nhất là – “không chối mình là Cham”? Phương tiện giao thông và internet, có lẽ. Đó là thách thức, vẫn là thách thức về tinh thần.