Phê bình truyền thông đang lấn át phê bình hàn lâm

Hiền Nguyễn thực hiện
Báo Toquoc.vn, 23-7-2009.

Báo Tổ quốc vừa thực hiện cuộc phỏng vấn ba nhà văn: Ngô Thảo, Phạm Đình Ân và Inrasara về phê bình văn học đương đại. Bạn đọc có thể đọc hết và xem ảnh ở đây:
vanhocquenha.vn

Đây là nguyên văn phần Sara:

Hiện nay có hai khái niệm phê bình: Phê bình Hàn lâm và phê bình Truyền thông. Theo ông thì sự ra đời của Phê bình Truyền thông có phải là tất yếu không? những yếu tố nào tạo nên Phê bình Truyền thông?
Inrasara: Thế kỉ qua, phê bình văn học trên thế giới đã tiến những bước dài, phát triển đa dạng với nhiều trào lưu lớn ảnh hưởng đến sáng tác và thưởng ngoạn văn chương. Phê bình đa dạng ở đối tượng, ở hình thức thể hiện và đa dạng cả ở góc nhìn. Dẫu tồn tại dưới hình thức nào, nhiệm vụ của phê bình văn học là đảm bảo một trong hai [hoặc cả hai] chức năng là: phát hiện cái đẹp và quy phạm hóa cái đẹp. Nếu chức năng trước liên quan đến sự phụ thuộc vào tác phẩm, nghĩa là phê bình luôn đi sau sáng tác, thì chức năng sau nhấn về việc “lập thuyết”, một dạng phê bình khả năng dẫn đạo sáng tác. Hai chức năng này song hành tồn tại thúc đẩy sự phát triển của một nền văn học.
Giản lược hai “khái niệm” phê bình truyền thông và phê bình hàn lâm như thế, ta dễ dàng nhận ra hiện nay ở Việt Nam, phê bình truyền thông đang chiếm ưu thế. Và nó là “tất yếu”, nếu bạn muốn dùng từ này. Bởi nó nhanh nhạy trước thời sự văn chương: tác phẩm vừa ra đời, sự kiện vừa xuất hiện, vấn đề mới vừa đặt ra; người đọc cần đến phản ứng của nhà phê bình, cạnh đó nhà phê bình cũng muốn “định hướng” dư luận.

Nhưng cũng lại có ý kiến cho rằng, phê bình là khoa học nên chỉ tồn tại Phê bình Hàn lâm. Ý kiến của ông như thế nào?
Inrasara: Cộng đồng văn học có nhiều bộ phận: người sáng tác, nhà phê bình và độc giả; ở mỗi bộ phận tồn tại nhiều “loài” khác nhau. Trong tham luận tại Hội nghị lí luận – phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam tại Đồ Sơn, tháng 10-2006, tôi đã thử phân loại nhà thơ làm ba nhóm.
Nhóm làm vần phục vụ đại chúng: gồm các nhà thơ phường xã, câu lạc bộ thơ hưu trí, thơ báo tường,… Loại thơ ưa chuộng là thể thơ cũ, lục bát đậm đà bản sắc, thơ có vần điệu êm tai, dễ lưu truyền và dễ nhớ.
Nhóm tiếp hiện viết phục vụ cho vài bộ phận độc giả chọn lọc hơn. Nhóm này luôn ở tư thế tiếp nhận và thể hiện các thành tựu gần. Họ sáng tác vừa với tầm mong đợi của đại đa số độc giả đương thời, bằng cách mở rộng và khuếch trương thành tích hôm qua của thế hệ trước đó.
Nhóm sáng tạo là kẻ luôn trên đường phiêu lưu khai phá, thay đổi và làm mới. Họ sẵn sàng làm mếch lòng độc giả đã từng yêu mến họ, kiếm tìm bộ phận độc giả mới, khác. Bởi họ dám thay đổi cách viết, thay đổi cả mĩ học sáng tạo.
Có thể áp dụng lối phân loài đó với “nhà” phê bình: nhà phê bình đại diện cho thị hiếu chung của xã hội, nhà phê bình phát hiện cái mới khác trong sáng tác đương thời, và nhà phê bình lí thuyết mang yếu tính khai mở hướng đi mới mà kẻ sáng tác đương thời chưa với tới.
Sự tồn tại của họ có lí do chính đáng của nó. Và tất cả đều có ích cho cộng đồng và cho sự phát triển của văn học.

Với tình hình hiện nay còn quá nhiều việc phải làm để cứu vãn sự mờ nhạt của lý luận phê bình, trong khi truyền thông lại phát triển với nhiều ưu điểm của mình, ông có cho rằng phê bình truyền thông đang lấn át phê bình hàn lâm không?
Inrasara: Đúng. Bởi phê bình hàn lâm trong giai đoạn qua vừa lạc hậu vừa yếu đuối, nên nó bị phê bình truyền thông lấn át thì không có gì phải phiền trách cả.
Lạc hậu, do thiếu tư tưởng để khả năng dẫn đạo sáng tác đã đành, ngay nhiệm vụ đảm đương chức năng thứ nhất thôi, nó cũng ít khi phát hiện ra cái đẹp mới của các sáng tác đương đại. Phát hiện, bảo vệ và qui phạm hóa chúng.
Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam đã công lớn trong việc phát hiện cái mới, cái đẹp trong Thơ Mới. Qua đó ông đã qui phạm hóa cái đẹp của Thơ Mới mang nặng yếu tố hậu lãng mạn chủ nghĩa với sự biểu hiện độc đáo của cái Tôi chủ quan. Qui phạm này đã ảnh hưởng không ít đến sáng tác và phê bình giai đoạn sau. Ông làm được chuyện đó ngay khi phong trào Thơ Mới chưa kết thúc. Còn hôm nay, thơ đổi mới đã xong phận sự, hỏi có độc giả nào cầm trên tay tác phẩm phê bình để nhận diện được thơ đổi mới Việt Nam? Thơ đổi mới thôi, chứ chưa nói đến thơ hậu đổi mới!
Lạc hậu dễ dẫn tới yếu đuối. Không ít nhà phê bình hàn lâm cứ muốn lấn sân phê bình truyền thông: rời bỏ nhiệm sở để viết bài điểm sách (muôn đời vẫn là “phát hiện” cái mới cũ), phê bình thực hành với những ngón cũ xài lại, vân vân…

Nếu một nền phê bình chỉ phát triển ở Phê bình Truyền thông thì có đáng lo ngại không?
Inrasara: Hỏi như thế coi như đã trả lời rồi.

So sánh lý luận phê bình của những nhà lý luận phê bình thế hệ đi trước và hiện nay, ông thấy có gì khác nhau không? Sự khác hay không khác đó nói lên điều gì?
Inrasara: Có vài khác biệt lớn. Ở đó bao nhiêu thuận lợi và thách thức. Thứ nhất, nhà phê bình hôm nay có cả không gian rộng lớn để thể hiện mình. Họ có thể gởi bài viết đến các tạp chí nước ngoài hay đăng trên mạng internet. Tiếp, khi sáng tác đương đại hết quẩn quanh trong ao đầm vài hệ mĩ học cũ kĩ mà đã mở rộng đến vô cùng; bao nhiêu trào lưu, bao nhiêu tác phẩm mới lạ thuộc các hệ mĩ học khác nhau xuất hiện buộc nhà phê bình phải nhanh nhậy nhìn nhận và đánh giá vừa kịp thời vừa trúng nhịp. Cuối cùng, trong thế giới mở, khi tiếp cận mênh mông lí thuyết văn học, nhà phê bình cần chọn thế đứng, để qua bài viết và tác phẩm của mình ông/ bà ta có thể khai phá con đường cho người viết ở thì tương lai, từ đó góp phần mình vào sự phát triển của văn học.

Những người theo đuổi lý luận phê bình vốn đã ít, lớp trẻ lại càng ít hơn, vì sao vậy?
Inrasara: Đơn giản bởi lí luận phê bình thì “khó” hơn sáng tác: nhà phê bình phải chịu “khó” đọc hơn (không đọc, bạn lộ ngay cái dốt), tác phẩm khó nổi tiếng hơn, và nhất là con người khó [dễ] thương hơn.

Nhà phê bình Hoài Thanh khi đứng trước một tác phẩm thì ông dành chủ yếu cho “bình” mà ít thấy “phê”, ông đánh giá thế nào về cách phê bình này và hiện nay nó có phù hợp không?
Inrasara: Theo tôi, đó chỉ là lối nói. Dù không đậm, nhưng đây đó trong Thi nhân Việt Nam, ông vẫn “phê”: Nguyễn Vỹ, Hàn Mặc Tử,… chẳng hạn. Còn lại, phê bình của Hoài Thanh ý hướng thưởng ngoạn cái đẹp của văn chương và gợi ý người đọc thưởng thức văn chương theo “định hướng” ấn tượng chủ quan của mình. Lối phê bình đó không bao giờ hết thời. Khía cạnh hữu ích của nó vẫn đáng được lưu dụng. Nhưng trong tiến trình văn học hôm nay, cần trả lại cho nó vị trí khiêm tốn như nó đáng có.
Nhiệm vụ của nhà phê bình – một nhà phê bình truyền thông với lợi thế của mình – là dám và biết chỉ ra những lạc hậu, lỗi thời, mấy đụng hàng hay ngộ nhận; biết khám phá cái mới và bày chúng ra cho người đọc thấy. Chỉ như vậy thôi, ông/ bà ta mới đóng góp phần việc mình trong tiến trình (văn học như một tiến trình); nếu không nhà phê bình chỉ là cây viết xu thời, kẻ vuốt đuôi ba phải hay tên nô lệ hoặc tù nhân của hệ mĩ học lạc hậu.

Một nhà phê bình từng cho rằng phải có tác phẩm văn học hay, hoặc “có vấn đề” mới kích thích các nhà phê bình. Vậy phải chăng các nhà phê bình của chúng ta hiện nay đang “ngồi chờ”?
Inrasara: Phê bình văn học Việt Nam thiếu tư tưởng nên mãi ăn theo sáng tác, chịu phận làm nô bộc cung cúc tận tụy cho người viết. Từ đó ta hay có lối phát biểu khá lạc hậu là: bởi chưa có sáng tác hay nên nền phê bình ta dậm chân tại chỗ. Nói phê bình “ngồi chờ” sáng tác là chưa rốt ráo. Phê bình vẫn có khả năng gợi mở, thậm chí – dẫn đạo sáng tác, nếu đó là phê bình lí thuyết, phê bình đặt trên nền tảng mĩ học mới, hay ít ra là nền mĩ học phi-cũ. Tiếc là loại phê bình này mới manh nha ở Việt Nam. Đó chính là một hình thức phê bình mang tính tư tưởng sẵn sàng đánh đổ và cho lưu kho các hệ mĩ học từng thống ngự nền văn học trước đó, một phê bình mang ở tự thân khả tính làm thay đổi và mở rộng cách đọc và nhìn nhận của chúng ta về văn học. Phê bình như thế làm chùn bước các nhà phê bình ngoan cố trụ lại nơi căn cứ địa thẩm mĩ lỗi thời, gây bất an cho những người viết còn ẩn nấp trong túp lều quan niệm sáng tạo cũ.

Bài phê bình đầu tiên của ông ra đời năm bao nhiêu? Nếu chỉ đơn thuần làm lý luận phê bình văn học thì từ bấy đến nay ông có sống được với nghề không? Thời gian để hoàn thành một bài viết của ông là bao lâu?
Inrasara: Đó là bài giới thiệu tập thơ Xáo chộn chong ngày của Bùi Chát, được viết trong chưa đầy một buổi, đăng trên Tienve.org vào mùa xuân 2003. Ở đó tôi nêu bật vài điểm mấu chốt của tập thơ sáng tác trong cảm thức mĩ học mới:
“Đừng đòi hỏi ngôn từ đẹp đầy tính “văn chương” trong tập thơ này, thứ ngôn từ lâu nay thiên hạ cứ nghĩ thế mới là thơ, thơ đích thực. Ngôn ngữ Bùi Chát là lời nói hàng ngày của người hẻm phố, hơn nữa – tầng lớp dưới đáy xã hội, có lẽ. Không dừng lại ở đó, Bùi Chát còn cố ý đẩy ngôn ngữ thơ mình đến tận cùng của thường nhật, mặt trái của thường nhật: mảnh vụn hơn, manh mún hơn nữa – nó ở bên kia cõi xa xỉ trí thức…
Thứ thơ rác [rưởi] đặc hiệu này lần đầu xuất hiện ở Việt Nam, có lẽ. Nó mang trong mình làn gió thối thổi vào không khí thơ chúng ta. Nó buộc chúng ta quay lại nhìn nó. Và nhìn lại cả mình nữa! – Lâu nay, mình có quá thơm, quá diêm dúa lắm không!?”
Sau đó “Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn”, tham luận đọc tại Đại hội Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, tháng 3-2005, được viết sau cả tháng tìm và xử lí tài liệu. Tại đó tôi muốn nhấn vào “khủng hoảng như một tín hiệu tốt lành”.
Cả hai bài đã tạo dư luận đáng kể.
Trong lúc bài trên đăng miễn phí trên mạng internet thì bài sau được Ban Tổ chức Hội thảo trả 300.000 đồng. Nói thế để hiểu rằng vụ “nhà phê bình sống được với nghề” không khác nào chuyện hái sao trên trời. Dĩ nhiên phải trừ ra vài lính đánh thuê.

Ngoài làm lý luận phê bình văn học ra, ông còn làm công việc gì khác không? Theo ông đó có phải là một trong nhiều lý do khiến phê bình của chúng ta nhạt nhoà, rơi vào khủng hoảng không?
Inrasara: Tôi sáng tác (thơ, tiểu thuyết) và nghiên cứu văn chương – ngôn ngữ Chăm là chính, làm phê bình chỉ là thế buộc. Khi thấy vài tác giả, nhóm tác giả, tác phẩm, trào lưu văn chương có tiềm năng nhưng bị giới thuyền thông bỏ qua oan uổng hay bị ngược đãi bất công, tôi tự cho mình trách nhiệm nhập cuộc. Nhập cuộc bằng ghi nhận chúng, bày ra cái hay, cái mới của chúng đến với người đọc, truy tìm triết học trên đó loại thơ văn này nảy sinh và, nếu cần – biện minh cho chúng. Tôi gọi đó là phê bình lập biên bản. Là phê bình không chối bỏ một nỗ lực làm mới nào, trào lưu sáng tạo trên nền tảng hệ mĩ học nào bất kì; ứng xử công bằng và sòng phẳng với mọi tác phẩm, tác giả hay nhóm tác giả.
Dĩ nhiên làm nhiều việc như thế sẽ không thể “đảm bảo chất lượng” ISO, trong khi phê bình thế giới hiện thời đang đi vào chuyên sâu. Nhưng hiện trạng văn chương Việt Nam buộc phải thế, không thể khác.

Theo ông, ở ta có bao nhiêu phần trăm nhà lý luận phê bình chuyên nghiệp? Bản thân ông thì sao?
Inrasara: Tôi không là nhà phê bình chuyên nghiệp, thì chuyện đã rõ rồi. Còn ở ta hiện nay có bao nhiêu phần trăm “nhà” như thế kia thì chưa ai làm cái thống kê đó.

Để khắc phục tình hình lý luận phê bình hiện nay, chúng ta nên làm gì và bắt đầu từ chính cá nhân hay những cơ quan chuyên ngành?
Inrasara: Bắt đầu từ chính nhà phê bình và từ tổng biên tập báo chuyên ngành.
Một nhà phê bình Nga (ở một bài trả lời phỏng vấn được dịch đăng trên báo Văn nghệ 2008, xin lỗi đã quên tên) đề nghị khá thực tế rằng mỗi nhà phê bình cần theo dõi khoảng trăm nhà văn mình yêu thích (nhiều hơn thì không kham nổi, còn ít hơn thì ông/ bà ta chưa đủ tầm là nhà phê bình). Cả nước cần mươi nhà phê bình như thế. Khi các nhà này “đấu tranh” với nhau, văn đàn chắc chắn sẽ sôi động lên. Sự thể rất có ích cho phát triển văn học.
Hỏi ở Việt Nam hôm nay, có nhà phê bình nào đã làm được công việc đơn giản đó: theo dõi sát sao 100 nhà văn “của” mình không? Và xin hỏi thêm: Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam đã sẵn sàng là diễn đàn cho cuộc đấu tranh kia chưa? Câu trả lời dứt khoát là: không và chưa! Chúng ta vẫn còn chưa có một diễn đàn đúng nghĩa. Các cuộc trao đổi văn học mấy năm qua chỉ là thứ cãi cọ vụn vặt, không rốt ráo do đó – chẳng đi tới đâu cả. Thì làm sao văn chương Việt Nam có thể phát triển. Và nhà văn chúng ta hứa hẹn cho ra đời tác phẩm lớn!?

Cảm ơn và chúc ông có nhiều tác phẩm tâm đắc.

Sài Gòn, 22-7-2009.

One thought on “Phê bình truyền thông đang lấn át phê bình hàn lâm

  1. Pingback: Ngoclinhvugia's Blog

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *