Hồ sơ Phê bình lập biên bản

(Hồ sơ về 3 loại phê bình lập biên bản của Inrasara: Bàn tròn văn chương, Biên bản lập chậm Phê bình [như là] lập biên bản).

“Phê bình lập biên bản”, Đặng Thân đùa rằng chỉ riêng cụm từ này thôi cũng đủ tư cách đưa Inrasara vào văn học sử… Việt Nam rồi! Ngược lại, một vị phó giáo sư đã có đến hai bài báo dài chê trách và phê phán nó. Bài viết này cần được xem như một cung cấp tư liêu, bên cạnh vài “giải bày nỗi niềm” cần thiết. Như thể một thanh lí sổ sách về một mảnh đời đã qua.

1. BÀN TRÒN VĂN CHƯƠNG
Đây là hồ sơ cần thiết. Tôi thấy mình có trách nhiệm kể lại sự việc đã xảy ra, để độc giả quan tâm có tư liệu đối sánh. Về sinh hoạt văn chương này, ngoài những bài tường thuật của báo, đài và một bài viết của tôi “Bàn tròn văn chương qua ba kì phiêu lãng” đăng trên báo Văn nghệVanchuongviet.org(1), còn thì nó chưa được thông tin chính thức và có hệ thống. Bởi theo Quy ước của Bàn tròn văn chương (viết tắt BTVC), Biên bản BTVC thuộc bản quyền của BTVC, chỉ được sử dụng khi có ý kiến của tập thể. Nay tập thể đó đã tan rã, nên coi như các biên bản này sẽ không bao giờ được ra mắt công chúng, cho dù các thành viên tham dự BTVC đều nhận được chúng qua thư điện tử(2). Tường thuật này chỉ là kể lại câu chuyện về một hình thức hoạt động văn chương đã qua mà không vi phạm đến Quy ước.
BTVC là ý kiến đề xuất của nhà văn Phan Thị Vàng Anh, thành viên Ban chấp hành phụ trách Ban Sáng tác trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam, trong ý định xây dựng đội ngũ nhà văn trẻ nòng cốt hiểu biết và có khả năng trình bày về chính công việc của mình: nghề văn. Ý định này đã gặp ý tưởng của tôi về “lập biên bản” văn chương trong năm, nên chúng tôi nhất trí cao về nó. Thời gian đó Vàng Anh đang sống ở Hà Nội, nên ủy quyền cho tôi chủ trì và triển khai BTVC.
Trong đúng nửa năm hoạt động: từ ngày 21-10-2006 đến ngày 21-4-2007, BTVC xảy ra 7 kì liên tục(3).

Nhận định: Đa số người trong danh sách do Phan Thị Vàng Anh đề xuất ban đầu (6 người) đều rút lui, trong khi ngược lại BTVC thu hút nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo đủ thành phần, lứa tuổi hưởng ứng; số lượng tăng qua mỗi kì. Dù tiêu tốn của nhân dân rất ít (300.000 đồng/ kì) nhưng có thể nói BTVC hoạt động khá chuyên nghiệp và vui vẻ. Rất hiếm người bỏ hội trường ra ngoài dở chừng. Đề tài do chính thành viên chọn (phần tôi chưa có đề xuất đề tài nào), Văn bản được gởi cho tất cả mọi người qua thư điện tử, Biên bản tốc kí được mọi người xem và sửa lại, cuối cùng mọi thành viên đều nhận được Biên bản chính thức. Vô vị lợi và vô tư, là tinh thần quán xuyến suốt 7 kì. Đề tài có thể là một tập thơ (Ngô Thị Hạnh, Vương Huy), một tập truyện ngắn (Nhật Chiêu), một bài thơ (Lê Vĩnh Tài), một trào lưu văn chương (hậu hiện đại) hay một hình thức thể hiện (văn chương mạng); không phân biệt nó xuất sắc hay không (như có ý kiến cho rằng thơ Ngô Thị Hành, Cát Du có gì hay mà BTVC ưu ái). Bởi nếu là tập thơ trung bình, BTVC thảo luận về cái trung bình của nó, rằng nó trung bình thế nào, tại sao như thế, và nó có gì khác so với trung bình tương cận không? Nghĩa là BTVC vẫn có thể rất hay, cả khi bàn về tác phẩm dở.
7 kì sinh hoạt BTVC trót lọt và vui vẻ là điều lạ. Thế rồi nó xảy ra sự cố: Văn bản cho BTVC kì 7 xuất hiện trên báo mạng. Như sự cố tương tự ở kì 1 (Biên bản sơ thảo) và anh chị em đã rút kinh nghiệm. Nhưng hôm nay nó lại xảy ra, nghĩa là Quy ước bị vi phạm (xin đừng đổ lỗi cho ai). Tôi email thông báo cho Phan Thị Vàng Anh và các thành viên là: tôi quá bận và mất hứng, anh chị em làm tiếp 5-6 kì đi, khi nào có hứng tôi sẽ trở lại.

Nhưng dẫu sao đi nữa, bản thân tôi, tôi rất cám ơn BTVC và bà con tham dự. Tôi gọi Bàn tròn văn chương là Lập biên bản [như là] phê bình. Tại đó nhiều thành viên (có cả tôi) góp ý nhân định và phê bình một tác phẩm, một vấn đề hay một trào lưu văn chương đương đại (kiểu tập thể phê bình). Biên bản BTVC là bản ghi chép trung thực và đầy đủ các nhận định đó.
Sau kì 7, tôi làm cái sơ kết: Chúng ta được ba thành công nhỏ, nhưng từ đó vỡ ra một thất bẠi lớn. Ba thành công là: Thành công trong tập hợp đa thành phần, đa xu hướng sáng tác, nhiều lứa tuổi khác nhau với số lượng người tham dự ngày càng tăng để thực sự cùng bàn về văn chương đương đại; đề tài hay tác giả – tác phẩm của Bàn tròn được chọn tự do, vô phân biệt; thành viên thảo luận tự do trong một không khí cởi mở, vô ngại; tự do nhưng có trách nhiệm, vì ý kiến của bạn được ghi vào Biên bản. Là ba điều chưa từng xảy ra trước đó. Nhưng thất bại lớn nhất và duy nhất của BTVC là chất lượng của ý kiến. Cứ đặt 7 Biên bản BTVC cạnh Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo, sự chênh lệch là rất lớn. Đó là vật chứng không thể chối cãi về tầm ý thức về nghề của nhà văn nhà thơ hôm nay so với nhóm Sáng Tạo. Trong khi tuổi trung bình của ta gấp rưỡi thế hệ trước ở thời điểm họ thảo luận, và ta đi sau họ đến nửa thế kỉ!
Ý kiến này tôi có nêu trong Hội nghị Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tại Hà Nội, tháng 11-2008, và đề nghị Ban chấp hành cần tìm biện pháp duy trì BTVC. Nhưng đề xuất này không được quan tâm.

2. BIÊN BẢN LẬP CHẬM
“Thất bại” với BTVC, tôi quay sang tập trung làm biên bản về các cuộc Hội thảo văn học, Cà phê sách,… mà tôi gọi là Biên bản lập chậm. BBLC ghi trung thực cuộc văn chương xảy ra, không thiếu sót ý kiến, chi tiết hay nhận định thiên kiến, lệch lạc. Các cuộc đó hoặc tôi viết lại sau khi làm chủ trì hoặc tôi ghi tốc kí khi tham dự với tư cách thành viên hay kẻ ngoài lề, không vấn đề gì cả.
“Sau mỗi cuộc hội thảo lớn nhỏ, luôn có các cách đưa tin và nhận định khác nhau. Cafe Văn học tháng 7 của Hội đồng Anh không là ngoại lệ. Đã có 5-6 bài báo ngắn về cuộc này. Người đọc cũng sẽ tiếp nhận và hiểu nó mỗi khác, chắc chắn thế. Theo tôi, tốt hơn cả là ta cứ ghi biên bản: cụ thể, chính xác, đầy đủ. Sự việc sẽ nói lên tất cả. Là người trong cuộc, tôi thử “lập biên bản” hội thảo này. Và để biên bản không rơi vào chủ quan hay thiếu sót, tôi có tham khảo ý kiến và trí nhớ của vài người tham gia”(4).
Tôi gọi đó là Lập biên bản & [sau đó] phê bình. Bởi sau mỗi Biên bản là một nhận định ngắn về nó. Phần này gồm 12 bài: Hội thảo thơ tại TP Hồ Chí Minh 8-2006, Hội nghị lí luận – phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam ở Đồ Sơn 10-2006, Tọa đàm lí luận – phê bình của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh 9-2007, Hội thảo khoa học Đời sống Văn học – Nghệ thuật TP Hồ Chí Minh thời kì hội nhập 10-2007, Buổi ra mắt tập thơ Thời hôm nay, khoái cảm và điên rồ hợp lí của Nguyễn Thúy Hằng tại Viện Goethe 3-2006, Nheo mắt nhìn thế giới của Bằng Việt tại Nhà sách Đông Tây, Hà Nội 6-2008,… Duy nhất Biên bản lập chậm về Cafe Văn học của Hội đồng Anh đăng tại Tienve.orgVanchuongviet, 10-7-2007. Làm BBLC là tôi nhằm phục vụ cho nghiên cứu riêng mình nên chúng ít “kiêng nể” hơn cả; ngoài vài bạn văn thân thiết, tôi không muốn đưa ra thông tin đại chúng.

3. PHÊ BÌNH LẬP BIÊN BẢN.
Là các bài “phê bình” của tôi về tác phâm, tác giả hay trào lưu văn chương đương đại. Đây là công việc thú vị, gay cấn nhưng gây phiền hà cho tôi hơn cả. Nó không thuần nghiên cứu và cũng không hẳn phê bình mà cư trú lấp lửng giữa hai món này. Nên tôi gọi nó là Phê bình [như là] lập biên bản. Nó gồm:
– Lời giới thiệu tập thơ: là chuyện tôi tránh tối đa. Vỏn vẹn chỉ 3 tập thơ của bạn thân, 2 bài nữa do tác giả nâng cấp thành “lời giới thiệu”, còn thì tôi từ chối khéo.
– Phê bình trào lưu hay một bộ phận văn chương: về thơ nữ, thơ dân tộc thiểu số, thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại,… Đây là mảng tôi viết đầy hứng thú và có thể nói qua chúng, tôi có nhiều khám phá mới lạ.
– Để làm được việc trên, tôi đã phải “lập biên bản” gần 70 tác phẩm, tác giả ở thế hệ tôi và sau tôi một ít thuộc nhiều hệ mĩ học khác nhau. Với loại phê bình này, tôi cố gắng bày nó ra như là thế, rồi thì trên cơ sở hệ mĩ học của tác giả để đánh giá chính tác phẩm đó. Nghĩa là không từ hệ mĩ học này phê phán sáng tác thuộc hệ mĩ học khác. Tôi nghĩ chỉ như vậy mới đảm bảo sự công bằng cho mọi trào lưu văn chương. Chúng không loại trừ nhau mà cùng tồn tại để thúc đẩy tiến bộ.
Vừa yêu Trần Ngọc Tuấn (cổ điển), bên cạnh thích Mai Văn Phấn (hiện đại) lại đi khoái Đôc Kh. (hậu hiện đại), nên không ít bạn thơ cho tôi “thiếu lập trường”. Tôi thì nghĩ khác(5). Lập biên bản không phân biệt đối xử và loại trừ. Bạn cho là bất công khi báo chí chính thống không đăng thơ hậu hiện đại của bạn, thế hỏi có công bằng không, nếu bạn muốn loại bỏ thơ “áo trắng” ra khỏi cuộc chơi văn chương? Bất kì hiện tượng văn chương nào tồn tại đều có lí do của nó. Từ phong trào ngâm thơ cho đến sinh hoạt câu lạc bộ thơ Đường luật hay thơ mực tím, từ thơ đăng báo Văn nghệ cho đến thơ rác in photocopy, thơ kì khu lựa chữ ép vần cho đến thơ viết văng mạng, mỗi loại đều có độc giả của nó. Và không thể nói nó không được đón nhận đầy trân trọng.
Tìm hiểu tinh thần con người thời đại thì không thể bỏ rơi chúng, miệt thị chúng. Tôi không cho phong trào văn chương thời thượng nào đó thì tiên tiến hơn cái có trước, không cho hậu hiện đại thì tiến bộ hơn hiện đại, tượng trưng thì lạc hậu so với siêu thực. Mỗi trường phái văn nghệ đều có thể hiến tặng cho nghệ sĩ một cách biểu hiện khác. Chúng góp nhiều chiều nhìn để làm phong phú cuộc sống tinh thần của nhân loại. Nhìn văn học trong tiến trình và biến trình của nó – từ một tác giả, một nhóm tác giả cho đến một trào lưu – là cái nhìn khả dĩ hơn cả. Chỉ có thái độ và hành vi cản trở sự hình thành và phát triển cái mới mới là lạc hậu và phản [chuyển] động. Tôi chống lại nó(6).

Dĩ nhiên Phê bình [như là] lập biên bản khó thoát khỏi nhận định chủ quan. Nghĩa là vẫn có “lập trường quan điểm”, có thích thú và thiên vị. Sự thiên vị [không tránh được] này thể hiện rõ ở lối viết đầy hưng phấn và “bay” của tôi về Phạm Lưu Vũ, Vũ Thành Sơn hay Nguyễn Hoàng Tranh, Đinh Linh,… Nghĩa là các tác giả sáng tác trong tiến trình từ hiện đại đến hậu hiện đại. Nói như Nguyễn Hưng Quốc: h(ậu h)iện đại. Trong các cuộc nói chuyện về thơ, tôi tuyệt đối không đọc thơ mình mà là các bài thơ tôi cho là hay trong năm để minh họa cho ý tưởng: “Khóc Văn cao” của Bùi Chát, “Nhà thơ bị đánh chết” của Lý Đợi, “Hemingway & bướm – nguyễn & xe tăng” của Phan Bá Thọ, “Giữa chị em ta” của Đinh Linh, “Căn phòng 2.2 – âm thanh sóng” của Lê Thị Thấm Vân, “Chỗ nào khô thì ngủ qua đêm” của Nguyễn Tôn Hiệt, nhất là các bài thơ của Nguyễn Hoàng Nam và Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Đây là hai cây bút sáng tác rất ít, nhưng mỗi bài thơ là một sáng tạo cực kì. Tôi “đọc”, phân tích cái “hay” và gợi ý cử tọa thảo luận về chúng.

Cũng như vài tháng nay tôi đang thật sự khoái vài khuôn mặt mới xuất hiện trên thi đàn. Có thể gọi đấy là thứ tâm thế của kẻ lãng du thưởng ngoạn cái mới hơn là của một nhà phê bình. Của kẻ đi trên con đường hơn là muốn truyền bá một trào lưu hay ý thức hệ nào đó. Lãng du, ghi chép và học tập. Đó là tôi. Còn bạn thế nào, tùy.

Sài Gòn, 4-4-2009.
_____________________

Phụ lục 1:

BÀN TRÒN VĂN CHƯƠNG
HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÀM VIỆC

A. Thông tin cần thiết:
– Tên chính thức: Bàn tròn văn chương.
– Nội dung: Thảo luận về một tác phẩm (tập hay bài), một/ một nhóm tác giả hoặc bất kì đề tài nào liên quan đến văn chương, nhấn mạnh vào thơ văn trẻ.
– Chủ trì Bàn tròn văn chương: Nhà thơ Inrasara cùng một nhà văn trẻ đồng chủ trì. (Nhà văn trẻ này là thành phần thay đổi “được” qua mỗi nhiệm kì 2 Kì; cuối Kì thứ hai, Bàn tròn đề nghị một đồng chủ trì mới. Mục đích thay đổi này là để tất cả mọi người đều có thể trải qua kinh nghiệm làm chủ trì bàn tròn).
– Thành viên Bàn tròn văn chương: Không phân biệt, miễn tôn trọng nguyên tắc tọa đàm của Nhóm.
– Diễn giả: Không nhất thiết là người có tác phẩm được bàn tới trong mỗi Kì Bàn tròn. Diễn giả sẽ chọn và mời người làm Đề dẫn cho cuộc nói chuyện của mình.
– Thành phần tham dự: Số lượng tối đa: 25 người, gồm: thành viên nòng cốt của Bàn tròn văn chương, khách mời của diễn giả (3-4 người); khách mời của Ban chủ trì (3-4 người)
– Nơi sinh hoạt: Chủ yếu tại Hội trường Hội Nhà văn Tp.HCM, 62 Trần Quốc Thảo, quận3. Cũng có thể ở một nơi khác, một tỉnh khác nếu có điều kiện.
– Thời gian: 1-2 kì/ tháng, từ 9-11.30giờ sáng thứ Bảy.

B. Tinh thần của Bàn tròn văn chương:
Bàn tròn văn chương là cuộc gặp mặt ở phạm vi hạn chế các thế hệ nhà văn đang sống và viết tại Tp.Hồ Chí Minh, nhấn mạnh thế hệ trẻ đang làm văn học của hôm nay.
Nhà văn làm, suy nghĩ về cái mình làm và diễn đạt suy nghĩ ấy với đồng nghiệp, để cùng trao đổi, thảo luận và nếu cần thiết – tranh luận.
Cuộc tranh luận không tranh thắng-thua, hơn-kém, mà để tìm hiểu giọng/lối làm/quan điểm văn chương giống/khác mình, của bạn văn cùng/khác thế hệ. Không nhất thiết đi đến nhất trí, mà cốt để những người sáng tạo có thể hiểu nhau, từ đó học biết chấp nhận cái giống/khác mình; để các quan điểm, các hệ mĩ học văn chương cùng tồn tại, cạnh tranh lành mạnh và sòng phẳng, tạo trong sạch cho khí quyển văn chương; từng bước thuyết phục người đọc trở lại với văn chương, lần nữa hứng thú với văn chương.
Bàn tròn văn chương là việc làm vô tư và vô vị lợi, thành viên tự do tham gia hay không tham gia. Thành viên chỉ có trách nhiệm ở mỗi Kì mình tham dự, về ý kiến mình thảo luận về Đề tài của Bàn tròn văn chương trong Kì đó.

C. Phương thức làm việc:
Để tránh dồn việc cho một cá nhân hay Ban chủ trì, mỗi Kì được tiến hành như sau:
Diễn giả:
– đăng kí đề tài vào cuối Kì này cho Kì sau.
– viết thành Văn bản đề tài kèm Đề dẫn, gửi cho Ban chủ trì trước 1 tuần của Kì.
– đề nghị Danh sách khách mời của mình.
– sau khi Ban chủ trì thống nhất, gởi 3 văn bản và tác phẩm (nếu có) đến địa chỉ tất cả những người có liên quan, trước 5 ngày của Kì.
– lo các việc hậu cần khác.
– sau rốt, sau Kì Bàn tròn văn chương của mình, diễn giả là người tập hợp, đánh thành văn bản tất cả ý kiến, hoàn thành Biên bản nháp cuối cùng, giao cho Ban chủ trì, chậm nhất là một tuần sau Kì đó.
Thư kí:
– mỗi Kì có 1 Thư kí làm biên bản; Thư kí Bàn tròn văn chương có thể thay đổi.
– ghi Biên bản Kì Bàn tròn văn chương: đầy đủ, rõ ràng, chính xác tất cả ý kiến thảo luận.
– giao Biên bản viết tay cho Diễn giả; nếu có thể, giúp Diễn giả làm thành văn bản để bàn giao cho Ban chủ trì.
Thành viên và khách mời:
– tự do trao đổi về Đề tài đang thảo luận.
– xem lại, giúp chỉnh sửa ý kiến của mình sau khi có trong tay Biên bản nháp.
Chủ trì:
– ít nhất phải có 1 người có mặt tại Kì Bàn tròn văn chương.
– trực tiếp liên hệ việc làm và trách nhiệm với Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Tp.Hồ Chí Minh.
– hoàn thành Hồ sơ cuối mỗi Kì, gửi cho mỗi thành viên, lưu giữ để làm Kỉ yếu Hồ sơ văn chương cho năm.

D. Về cơ sở vật chất và thông tin khác:
– Hội Nhà văn Tp.Hồ Chí Minh cho mượn địa điểm.
– Nước uống (trà, nước lọc) lấy từ quỹ của Ban công tác Nhà văn trẻ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam.
– Nếu tổ chức ở tỉnh xa, Ban Chủ trì có đề xuất và dự toán để Ban Công tác Nhà văn trẻ có cơ sở cấp kinh phí từ quỹ chung của Ban.
– Thông tin đại chúng có quyền thông tin về Bàn tròn văn chương như mọi sinh hoạt văn hóa – xã hội khác.
Hội Nhà văn Việt Nam
Ban Sáng tác trẻ

Phụ lục 2:
BTVC kì 1: Ngô Thị Hạnh làm thơ và nghĩ về thơ
Địa điểm: Hội trường Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh, 62 Trần Quốc Thảo, Q.3.
Thời gian: Bắt đầu lúc 9 giờ 30, ngày 21-10-2006.
Đề tài: tập thơ Rơi ngược của Ngô Thị Hạnh.
Chủ trì và đề dẫn: Inrasara; bài viết: Ngô Thị Hạnh: “Thơ nuôi dưỡng niềm tin”
Tham dự, 20 người gồm: Trần Hữu Dũng, Vũ Trọng Quang, Nguyễn Trung Bình, Phan Trung Thành, Lê Thiếu Nhơn, Lý Đợi, Jalau Anưk, Thục Linh, Phan Hoàng, Thanh Xuân, Bùi Thanh Tuấn, Đinh Lê Vũ, Phương Trinh, Lê Vũ Hương Duyên, Song Phạm, Đoàn Phương Huyền, Huỳnh Tài, Lê Văn Tiến.
Phan Trung Thành viết Biên bản BTVC.

BTVC kì 2: Lê Vĩnh Tài và Thơ
Địa điểm: Hội trường Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh, 62 Trần Quốc Thảo, Q.3.
9 giờ, thứ Bảy, ngày 4-11-2006.
Đề tài: “Kết hay Bài thơ làm mục lục” của Lê Vĩnh Tài.
Chủ trì: Inrasara; đồng chủ trì Lê Thiếu Nhơn
Diễn giả: Lý Đợi: “Lê Vĩnh Tài & bài thơ cuối cùng trong tập Liên Tưởng”
Tham dự 25 người gồm: Inrasara, Nguyễn Tiến Văn, Lý Đợi, Lê Thiếu Nhơn, Ngô Thị Hạnh, Thanh Xuân, Phan Trung Thành, Trần Hoàng Nhân, Trần Hữu Dũng, Lê Tân, Nguyên Cẩn, Nguyễn Hòa, Bá Minh Trí, Huy Tuấn, Lê Hải…
Ngô Thị Hạnh viết Biên bản BTVC.

BTVC kì 3: Hậu hiện đại trong văn học Việt Nam đương đại
Địa điểm: Hội trường Văn nghệ sông Cửu Long, 90 XV Nghệ Tĩnh, TP Vũng Tàu.
Ngày 25-11-2006.
Chủ trì: Inrasara; đồng chủ trì: Lê Thiếu Nhơn. Diễn giả: Nguyễn Tiến Văn
Tham dự 42 người gồm: Inrasara, Hoàng Hưng, Nguyễn Hoà, Xuân Sách, Phạm Lưu Vũ, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Tiến Văn, Vi Ký, Cát Vũ, Lê Thiếu Nhơn, Lý Đợi, Jalau Anưk, Ngô Thị Hạnh, Thanh Xuân, Trần Hoàng Nhân, Ý Nhi, Lê Hải, Trần Hữu Dũng, Vũ Trọng Quang, Đoàn Phương Huyền, Quỳnh Hợp, Thục Linh, La Thị Ánh Hường, Võ Thu Hương, Lê Minh Vũ, Lê Hải, Vũ Ngọc Giao, Nguyễn Bá Văn, Nguyễn Tý, Ngọc Tuyền, Thùy Dung,…
Chương trình giao lưu với hà thơ Xuân Sách và nhà thơ Hoàng Hưng.
Ngô Thị Hạnh viết Biên bản BTVC (dang dở, bởi vài thành viên không sửa Biên bản sơ thảo).

BTVC kì 4: Cát Du làm thơ trong cơn mê ngủ
Địa điểm: Khu du lịch Đại Nam, tỉnh Bình Dương.
8.30 giờ, ngày 23-12-2006.
Chủ trì: Lê Thiếu Nhơn; đồng chủ trì: (?). Diễn giả: Trần Hoàng Nhân
Tham dự khoảng 30 người gồm: Lý Đợi, Triệu Từ Truyền, Thanh Xuân, Lê Hải, Trần Hữu Dũng, Vũ Trọng Quang, Nguyễn Trung Bình, Thục Linh, Lê Tân, Vũ Ngọc Giao, Nguyễn Bá Văn, Nguyễn Tý, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Tiến Văn, Lê Anh Thu, Lưu Vân, Nguyễn Công Dinh, Lưu Thành Tựu, Nguyễn Tiến Đường, Nguyễn Khánh, Cát Du.
Lý Đợi viết Biên bản BTVC (có lẽ đây là biên bản hay nhất: chi li, cụ thể và đúng là… biên bản).

BTVC kì 5: Lửa sâu cõi đá của Vương Huy: Cuộc lữ hành về một thiên đường đã mất
Địa điểm: Hội trường Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh.
9 giờ, thứ Bảy, ngày 31-3-2007.
Chủ trì: Inrasara; đồng chủ trì: Lý Đợi. Diễn giả: Nguyễn Hữu Hồng Minh.
Tham dự khoảng 30 người gồm: Ngô Thị Hạnh, Trần Hữu Dũng, Lê Hải, Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Hoàscl, Vũ Trọng Quang, Nguyễn Trung Bình, Thục Linh, Vũ Ngọc Giao, Khúc Duy, Nguyễn Văn Quý, Triều Nguyên, Liên Châu, Lê Hoàng, Chinh Văn, Trần Khải Minh, Văn Ngữ, Thúy Vinh…
Lê Văn Tiến viết Biên bản BTVC (dang dở, Inrasara lập chậm).

BTVC kì 6: Nhật Chiêu – Thử thay đổi cách nhìn vào thực tại
Địa điểm: Hội trường Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh.
9 giờ, thứ Bảy, ngày 7-4-2007.
Chủ trì: Inrasara; đồng chủ trì: Nguyễn Hữu Hồng Minh. Đề dẫn: Trần Hữu Dũng.
Tham dự 55 người gồm: Tôn Nữ Thu Thủy, Ngô Thị Hạnh, Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Hoàscl, Vũ Trọng Quang, Vũ Ngọc Giao, Nguyễn Văn Quý, Lê Hoàng, Chinh Văn, Bích Ngân, Song Phạm, Khổng Đức, Nguyễn Minh Hoàng, Phan Trung Thành, Nguyệt Phạm, Nguyễn Thanh Hải, Lê Hồng Nguyễn, Kim Thanh, Lam Điền, Nguyễn Chương, Mộc Khoa, Thầy Nhơn, Trương Hồng Hảo, Bảo Trâm, Hồng Sơn, Vũ Tâm Huề, Hoài Hương, Lê Thị Gấm, Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu, Đài HTV, đại diện Cty Nhã Nam, Thu Hằng, Thích Nam Thắng, Phương Thảo, Bích Liên, Dương Thanh Vân.
Lưu Phương viết Biên bản BTVC.

BTVC kì 7: Văn chương mạng & Website Vannghesongcuulong.org
Địa điểm: Hội trường Hội Liên hiệp Văn học – Nghệ thuật TP Hồ Chí Minh.
8:30giờ, thứ Bảy, ngày 21-4-2007.
Chủ trì: Inrasara; đồng chủ trì: Nguyễn Hữu Hồng Minh. Đề dẫn: Vũ Trọng Quang.
Tham luận 1. Các nhận định về Web văn học Việt Nam: Hồ Thi Ca. 2. Văn chương mạng: Inrasara. 3. Nguyễn Hòa: Thành quả, hiệu quả và vị trí của Văn chương Việt.
Tham dự: Lê Chí, Từ Nguyên Thạch, Hà Đình Nguyên, Thu Nguyệt, Phù Sa Lộc Ngô Thị Hạnh, Lê Văn Tiến, Lê Hải, Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Trung Bình, Thục Linh, Vũ Ngọc Giao, Nguyễn Văn Quý, Lê Hoàng, Chinh Văn, Trần Khải Minh, Lê Thiếu Nhơn, Jalau Anưk, Thanh Xuân, Trần Hoàng Nhân, Chinh Văn, Lê văn Tiến, Tôn Nữ Thu Thủy, Song Phạm, Khổng Đức, Nguyễn Minh Hoàng, Phan Trung Thành, Nguyệt Phạm, Lam Điền, Nguyễn Chương, Mộc Khoa, Bích Liên, Đài HTV, đại diện Cty Nhã Nam.
Ngô Thị Hạnh viết Biên bản BTVC.

_________________
Chú thích:

(1) “Bàn tròn văn chương qua ba kì phiêu lãng”, báo Văn nghệ, số 48, 2-12-2006.
(2) Các thành viên dù chỉ một lần tham dự BTVC, ngoài những người không sử dụng địa chỉ email, đều nhận được Văn bản và Biên bản BTVC. Chỉ khi nào đối tượng đề nghị rút tên (một trường hợp duy nhất), chúng tôi mới xóa khỏi danh sách.
(3) Sau BTVC kì 7, Ban chủ trì thông báo vài Quy ước mới:
Mục 1. Thời gian cách quãng mỗi kì là 4 tuần, từ 8:30 đến 11:30g sáng thứ Bảy.
Mục 2. Địa điểm: Hội trường Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp VHNT TP Hồ Chí Minh hay các địa phương đăng cai.
Mục 3. Đề tài, gồm 3 nội dung: Vấn đề nóng của văn chương đương đại, trào lưu, lí thuyết,…ảnh hưởng đến sáng tác văn chương hôm nay, tác giả (hay nhóm tác giả), tác phẩm (thơ, văn, dịch thuật, phê bình,..).
Mục 4. Mỗi đề tài BTVC cần có 3 tham luận và 1 đề dẫn. Tham luận từ 5-8 trang A4.
Mục 5. Sau BTVC, Ban chủ trì sẽ nhận Đề tài đăng kí trong tuần thứ nhất, các Tham luận trong tuần thứ hai; để cuối tuần thứ ba các bạn tham gia BTVC nhận được đầy đủ thông tin của BTVC kì tới.
Mục 6. Bất kì ai tham gia BTVC đều có thể đăng kí Đề tài hay viết Tham luận.
Gợi ý đề tài BTVC kì 8: Inrasara: Về phong trào thơ Tân Hình thức; Lê Thiếu Nhơn: Về tập thơ Nắng đêm của Lê Hải; Lam Điền: Vấn đề và tiêu chí tuyển chọn thơ nhiều tác giả (ví dụ: 100 bài thơ hay nhất của thế kỉ)…
Sau BTVC kì 7, “xảy ra” 2 cuộc nữa: Kì 8: Về tập thơ Nắng đêm của Lê Hải, tại Hội trường Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh; nhưng bởi kì này, Ban chủ trì không nhận được Văn bản (là cơ sở ban đầu phải có để cho cuộc thảo luận) và nhất là không nhận được Biên bản BTVC là bản văn cuối cùng chứng cứ cho một kì BTVC. Kì 9: Về tập thơ Cơn ngạt thở tình cờ của Trần Lê Sơn Ý, Ban chủ trì có nhận được Văn bản (gồm 3 tham luận ngắn) nhưng vì tổ chức bất thành và dĩ nhiên không có Biên bản, nên cả hai cuộc này chúng tôi không kể vào sinh hoạt của BTVC. Cả kì 10: Về phong trào thơ Tân Hình thức cũng thế.
(4) “Biên bản lập chậm”, Càfê Văn học của Hội đồng Anh tháng 7-2007, Tienve.org, 7-2006, Vanchuongviet.org, 9-7-2006.
(5) Có thể đây là do thói quen làm công việc nghiên cứu để lại. Ví dụ nhiều người Chăm khi đã yêu Ariya Glơng Anak thì ít thích Akayet Dewa Mưno, hoặc ngược lại. Tôi thì thuộc nằm lòng cả hai. Thế nhưng ở chỗ khác, tôi không thể đọc hết 50 trang Những người khốn khổ trong khi nhai đi nhai lại Lũ người quỷ ám đến chục lần; không ưa nổi lối viết tiểu thuyết của người Trung Hoa trong lúc lại đọc mê mẩn Faulkner. Con người mà, mình còn không hiểu nổi mình nữa là.
(6) Ở buổi nói chuyện với Khóa bồi dưỡng Lí luận – phê bình tại Hà Nội tháng 6-2008, tôi hỏi cử tọa: Ta cho in Dự báo phi thời tiết, ngay tuần sau ta cho thu hồi, rồi các báo phổ thông ta viết bao nhiêu là bài phê phán, trong khi báo chuyên chả đả động gì đến, hỏi như vậy có phải bất công không? Khác nào một cô gái đi đường, ta bắt cô ta giấu đi, rồi kêu làng trên xóm dưới rằng cô ả xấu lắm, đừng nhìn đừng ngó. Có ai ở đây cho như thế là công bằng không? Cả lớp ngồi im. Vậy đó.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *