Chuyện chữ2. Cười / klau

Chúng ta chưa biết cười. Đó là điều đáng tiếc.
Trong lúc ông bà Chăm không thiếu truyền thống cười, rất đa dạng.

1. Chữ Klau/Cười
Từ điển G.Moussay(1) kê ra mấy chữ klau:
Klau kapu / cười nụ, Klau ppajwak / cười gượng, Klau khim / cười mỉm, Klau đah đah / cười nắc nẻ, Klau hwah hwah / cười to tiếng, cười ha hả, Klau đaih đai /cười ngặt nghẽo, Klau pik mưta / cười ngất, Klau hik hik / cười khúc khích, Pathwơr klau / buồn cười, Klau pagrưng / cười giả lả, cười gằn, Klau di thauh / cười lảng, Klau bilei / cười chê, Klau hlok / cười mơn trớn, Klau haiy haiy / cười khì, Klau jwa / cười thầm.
Riêng tôi, tôi thấy có vài thứ cười khác nữa:
Klau langưk / cười muốn xỉu, Klau lwơ / cười nhạo, Klau palwơ / cười dụ khỉ, cười nịnh, Klau padrưh / cười nhả, Klau khim khiah / cười nhí nhảnh, Klau patuh tung / cười vỡ bụng, Klau hing tagei / cười khỉ, Klau hih hih / cười khúc khích, Klau haih / cười giòn, Klau haih haih /cười khanh khách, Klau yuw urang galaik / cười như bị cù, Klau nhim /cười duyên, Klau hauk ia mưta / cười ra nước mắt, Klau paglauh ia mư-ik / cười vãi đái, Klau pabak drei jan / cười lấp liếm, Klau bboh anưk tarakaung / cười há họng, Klau bboh maik bboh mư / cười thấy ông vãi bà vãi, Pathrok klau / nực cười, Paglauh klau / tức cười.

Qua chữ klau/cười, ngoài cái cười do tác động mang tính vật lí, chúng ta có thể phân loại thành ra 3 thứ cười: cười vui (hẳn nhiên rồi!), cười chê và cười khỏa lấp.

2. Klau/Cười từ văn chương truyền thống
Ừ, chữ cười thì vậy. Sau đây ta thử xem ông bà ta đã cười thế nào trong văn chương.
a. Văn chương trữ tình Chăm hầu như thiếu vắng hẳn tiếng cười. Hàng trăm kadha pađit/ca dao, chỉ có nỗi buồn, mênh mông buồn cùng niềm thương và tiếng than oán trải dài; thi thoảng có vài tiếng cười, nhưng lại là bị …cười mỉa!
Cả ba ariya/trường ca trữ tình cũng chẳng hơn. Chuyện tình của Hamlet hay Romeo and Juliet có đẫm máu và nước mắt tới đâu, Shakespeare vẫn cho xen vào câu chuyện vài tiếng cười rất khoái hoạt, dẫu tiếng cười đó chuẩn bị cho tình tiết bi thương hơn. Nhưng ở Chăm thì, không.
Ariya Bini – Cam, ba lần tác giả cho nhân vật cauk/khóc với hai lần ia mưta/nước mắt rơi, nhưng tuyệt đối không có lấy tiếng cười vui. Chỉ một lần duy nhất, nhưng đó là tiếng cười mà nhân vật thèm khát đi tìm để chạy trốn cô đơn nội tâm:
Dwah pơng xơp thei đom klau / Tìm nghe tiếng ai nói cười.
Nhưng, không có!
Cũng thế, trong Ariya Xah Pakei, hia/khóc: 1 lần, cauk hia/khóc than: 2 lần, ia mưta/nước mắt: 4 lần có mặt; riêng klau/cười: con số 0 tròn trĩnh! Còn Ariya Cam-Bini, có klau đấy, nhưng đó là klau bilei/cười chê!
Kuw hwơc đa gơp gan ra klau / Ta ngại hàng xóm cười chê
Gơp gan ra klau tok tai / Hàng xóm cười chê thây kệ!
Còn ở đầu bên kia thì đậm đặc: hia cauk/than khóc: 1, hia/khóc: 7, ia mưta/nước mắt: cũng 7 kì xuất hiện! Đó là chưa tính các hạn từ hàm nghĩa tiêu cực tương đương(2).

b. Văn chương trữ tình đã vậy, văn chương thế sự cũng chẳng khấm khá hơn. Có lẽ cuộc thế đảo điên, bi thảm hay cái khốn khó, cơ cực trong đời sống ngày xưa khiến ông bà ta không thể cười nổi trong văn chương chăng?!
Trong khi cả 116 câu ariya/lục bát Chăm của Ariya Glơng Anak không có lấy nửa tiếng cười, dẫu là cười buồn thì, Ariya Ppo Parơng thuộc thể loại thơ kí sự ghi lại cuộc hành trình dài dằng dặc tìm chữ của năm nhân vật Chăm tưởng có thể tồn tại đan xen đề huề giữa vui và buồn, cười và khóc; hay ít ra tiếng cười cũng phải chiếm tỉ lệ tối thiểu. Đằng này: không! Năm lần hia/khóc với hai lượt rơi ia mưta/nước mắt, mà chỉ mỗi bận cười/klau; lại là chẳng buồn cười:
Nhu ngap lingal saung kơm oh yaum khing klau!
Họ làm cày với bừa (nhìn) chẳng muốn cười nữa!
Cười nhiều chăng, chúng ta bắt gặp trong Pauh Catwai. Thế nhưng ở đây người ta chỉ tìm thấy cái cười đau đớn, chua chát của trí thức ưu thời mẫn thế: cười gằn/klau pagrưng hay cười rơi nước mắt/klau hauk ia mưta trước cuộc thế đảo điên, tình người đen bạc.
– Urang jiong di mik saung wa
Drei mư-aum cangwa kauh gai patauk
Người tìm an ủi nơi bà con
Mình đội cái nia, chặt cây về đỡ
– Aw juk kadung bai wak
Khơn kan ikak hanhah bilai
Dân áo đen mà đeo túi gấm
Vận khăn sang, đánh đàng xa làm dáng
(3)

Bên cạnh các sử thi/akayet, thơ trữ tình – cả thi ca dân gian lẫn tác phẩm viết – và thơ thế sự Chăm là hai mảng văn học quan trọng nhất; chính chúng vẽ những nét thật đậm lên phông nền văn chương cổ điển Chăm.
Như vậy, văn chương Chăm tuyệt đối thiếu tiếng cười?
Chưa hẳn! Ngược lại là khác. Tiếng cười đó có mặt ở chỗ khác, ngỡ khuất lấp nhưng độc đáo, đậm đặc; chúng vang lên sang sảng với giọng điệu khoái hoạt cực kì: chúng tồn tại, phát triển và biến thiên khôn lường trong ngôn từ hát-nói trong các lễ hội dân gian và tín ngưỡng Chăm. Các danak, damnưy,.. được Ong Mưdwơn, Ong Kadhar hát lên trong các cuộc lễ hội. Mà lễ hội dân tộc Chăm thì vô thiên lủng: từ lễ hội nông nghiệp cho đến lễ hội tôn vinh thần linh, lễ có tính cục bộ gia đình, tộc họ cho đến lễ hội mang tầm xóm plây, xứ sở. Mấy trăm bài Tụng ca với các dị bản ở từng palei, từng gru hay khu vực là những áng văn chương nửa truyền khẩu nửa thành văn giàu sang và độc đáo. Chính chúng nuôi dưỡng cái cười Chăm, đưa cái cười ấy đi thẳng vào cuộc sống, tuôn chảy giữa lòng đời; tách biệt hẳn ra khỏi dòng “văn chương” thuần túy.

c. Trước tiên chúng ta không thể không nhắc đến Ariya Nau Ikak, một bài thơ có vỏn vẹn 25 cặp lục bát nhưng nhà thơ đã diễn tả trọn vẹn quan niệm ở đời của Chăm: Cuộc sống như là chuyến đi buôn/nau ikak, không có vốn ở khởi thủy nên chẳng có lãi ở chung cục. Cả bài thơ không có từ klau/cười, nhưng cái cười hiện diện bàng bạc. Đó là nụ cười của kẻ hiểu thấu lẽ đời: đến, ở và đi của con người qua cõi đời; một con người đã làm xong bổn phận, phủi tay trả lại cõi trần những thành tích/không thành tích, thong dong trở về nhà:
Kuw mai sang kuw min juk phik
Klauh thun ikak sang thei thei wơk.
Ta về cố quận, tình ơi
Cuộc buôn đã mãn, nhà ai nấy về
(4).
Có thể nói, Ariya Nau Ikak là điểm son đậm nổi ghi dấu ấn tiếng cười thâm trầm, siêu thoát trong văn chương cổ điển Chăm. Thế nhưng, có cái cười vừa đời thường vừa cao cả, vừa sảng khoái vừa thanh thoát cư trú ở đường biên văn chương và cuộc sống, kết hợp nhuận nhị và thâu thái hai lãnh vực làm một, là cái cười tồn tại trong các damnưy/tụng ca Chăm.
Ta thử xét qua một bài Tụng ca tiêu biểu: Damnưy Cei Xah Bin Bingu.
Damnưy Cei Xah Bin Bingu gồm 69 cặp ariya, được hát trong Lễ Rija Nưgar, là lễ hội quan trọng và linh thánh của Chăm diễn ra vào đầu năm Chăm lịch. Bài tụng ca tôn vinh Xah Bin (anh em với Palak Bin), một vị tướng đẹp trai, hào hoa cùng cuộc chơi của Ngài: đi ngựa, săn thú rừng, uống rượu, chọc gái khắp xứ với tiếng nói cười rủng rảng:

Cei nau mư-in Jamuw
Karah di canuw pakrư kamei
Dara Jamuw siam đei
Karah di tacei pakrư mư-in…
Cei nau mư-in biak tơl
Di grơp nưgar cei nau mư-in
Cei nau mư-in biak ghơh
Sunit ginrơh Xah Bin Bingu
Chú đi chơi Giang Mâu
Cởi nhẫn trao – chiếc đeo ngón giữa
Gái Giang Mâu xinh lạ
Nhẫn đeo ngón trỏ, chú biếu chơi…
Bàn chân chú đi khắp
Mọi miền đất nước, chú đi chơi
Chú đi chơi thiệt tài
Phong thái tuyệt vời: Xah Bin Bingu…
(5)
Cứ thế, các từ klau/cười, khim klau/mỉm cười, đom klau/nói cười, đom bwei pakrư/nói đùa vui, đom pakrư/nói đùa, …nối đuôi nhau xếp hàng chen chúc. Cùng có mặt với chúng là tiếng chiêng, lục lạc ngựa, tiếng chó săn sủa mồi ăng ẳng, tiếng roi quất vào không khí, nhất là tiếng nói cười của các cô gái; cả tiếng (vô thanh) của những giọt rượu rơi vào cuống họng Ngài nữa! Tất cả đều đồng thanh reo vui, khoái hoạt! Chúng tạo thành tiếng cười xuyên suốt dòng văn chương-tín ngưỡng-cuộc đời này của Chăm. Qua đó, góp phần làm cho nền văn chương Chăm trở nên đa thanh, đa sắc.

3. Klau/cười trong sinh hoạt Chăm
– Trong sinh hoạt đời thường Chăm, không lúc nào thiếu vắng tiếng cười. Một lớp học hay nhóm nhỏ nông dân, thậm chí chỉ cần hai kẻ tiều phu với nhau, luôn có một/một vài kẻ đầu têu đom kalak/nói tếu hay đom cakơh/nói tếu tục chọc cười thiên hạ. Giờ giải lao hay ca nghỉ ngắn giữa buổi cày hoặc cả lúc đi đường, tiếng cười vang lên rổn rảng. Rồi, họ bắt đầu công việc.
– Các tụ điểm sinh hoạt cộng đồng cũng thế. Tụ điểm có thể là vài chiếc chiếu xe/ciew rideh được trải giữa sân nhà hay khoảng trống bên lề đêm lễ Rija praung, giờ rỗi của một Đám tang hoặc thời gian chờ đợi cuộc nhaum gơp/họp họ,…nhân vật chính như một cục nam châm thu hút khách thính nghe chuyện, – cười. Bao nhiêu là chuyện cười, cũ hay mới được người kể hứng khởi ứng tác ngay lúc đó. Chuyện Cei mưta plơk likuk krah hadah/Chàng mù thông minh kén vợ là một trong những. Chàng rớt giếng là để đo giếng nông sâu, gánh cả gánh sách để ra oai với nàng là bụng mình có đầy bồ chữ, hay khi cha nàng thử tài cày, chàng ta cho cày băng cả bờ, bị hỏi vặn, anh chàng trả lời: ruộng là để trồng lúa còn bờ dành cho tỉa bắp. Ông già vợ tương lai có nước ngọng!
Câu chuyện như thế tuổi thơ tôi theo mẹ đi nghe nghệ nhân Klơng Phac – người Hữu Đức lấy vợ Mĩ Nghiệp – kể, mãi sống trong kí ức tôi đến tận hôm nay. Chuyện khiến quý ông cười thầm, quý bà thì cười ha hả/klau đah! Mà làng đâu phải chỉ có mỗi ông. Thế hệ này sang thế hệ khác, Chăm sản sinh được những nghệ sĩ dân gian ưu tú, nhất là Hữu Đức, bao giờ cũng có những ông Thauw, mỗi cuộc lễ cứ mang tiếng cười đến góp vui cho các làng palei Chăm!
Carauk palei Hamu Tanran, Dran palei Bblang Kathaih
Sáng tác là làng Hữu Đức, bất khuất là làng Mang Thế…

(Đồng dao chăm)
là vậy!
– Mới bốn thập kỉ nay thôi, klau/cười luôn là tiết mục thu hút trên sân khấu nhà quê Chăm. Hiện tượng Cei Thổ làng Tuấn Tú trong đợt Lưu diễn văn nghệ quyên góp xây Trường trung học Pô-Klong là điển hình. Hơn hai mươi palei Chăm đoàn đi qua, ông đều để lại cho họ tiếng cười sảng khoái. Bất kể già trẻ lớn bé, ông chọc họ cười cả trong giấc ngủ và tiếng cười theo họ đến tận sáng mai.
Như vậy: Xưa, Chăm chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội cười, tạo tiếng cười hay tiếp nhận cái cười. Cái cười tập thể, rất đặc trưng Chăm(6). Bởi có cái cười chỉ tồn tại trong cộng đồng văn hóa ấy, hoặc khi chỉ được thể hiện qua ngôn ngữ ấy.
Đó là tiếng cười cố ý. Tác nhân – với mục đích khác nhau – gây cho đối tượng thụ nhận: cười. Có cái cười không cố ý, xảy ra ngẫu nhiên giữa cuộc sống, mỗi người tiếp nhận mỗi khác nên nó mang tính cá thể rất cao. Điều quan trọng là chúng ta biết chớp lấy nó để … cười! Dạng cười này vượt thoát khỏi cộng đồng văn hóa hay ngôn ngữ nên, nó là của chung nhân loại. Nó mênh mông đại hải cho nên, nếu đi sâu vào phân tích, e chúng ta sẽ lạc đề mất! Tôi chỉ xin lấy ví dụ:
Vào mùa xuân năm 2000, sau vài lần trao đổi qua lại, một bạn thơ nữ rất trẻ viết một bức thư dài cho tôi. Sau khi tự tán tụng thơ mình, cô nàng bắt đầu thuyết tôi về kĩ thuật thơ hiện đại. Nào là thơ phải có “quãng tám”, rồi nào là “tiết điệu”, “dấu lặng”,… Trời đất! Thật lòng là tôi cười muốn xỉu/klau langưk. Năm năm sau, trong những ngày rỗng hay mỗi khi không có chuyện gì để cười, tôi chậm rãi lôi bức thư kia ra đọc. Để … cười!

4. Chúng ta có còn biết klau/cười?
Đấy! Ông bà ta cười nhiều, đủ sắc thái, cấp độ; chỉ cần kê chữ cười/klau ra thôi cũng đủ cho chúng ta cười vỡ bụng rồi (chắc gì tôi đã liệt kê đủ). Vậy mà hôm nay chúng ta không chịu cười, mới lạ! Anh bạn thơ Jaya Hamu Tanran ở Ban biên soạn sách chữ Chăm ăn nói duyên ơi là duyên, nghe cứ muốn cười/tathrok klau, vậy mà làm thơ lại quá ư nghiêm nghị, mô phạm. Trầm Ngọc Lan cũng một giuộc, ngoài đời chọc thiên hạ cười suốt; thế mà thơ cứ “buổi chiều”, “lũy tre”, “nỗi nhớ”, …để mà buồn(7). Chả có lấy một tiếng cười thầm/klau jwa, nói chi cho bạn đọc cười ngất/klau pik mưta, cười đến chiều mai còn cười/klau tơl paguh bia harei!
Phê thiên hạ là vậy, thơ tôi có hơn gì đâu. Qua các nhận định của giới phê bình và, tự soi lại mình, dám nói là hầu như trong thơ Inrasara có khá đủ, chỉ mỗi sự thiếu: cái cười! Thế mới khổ chứ. Cứ cà vạt vét tông mà nhăn trán! Chả kém gì anh giáo làng gàn.
Mà Chăm thì rất cần cười, hơn bao giờ hết. Khổ lắm rồi, nghèo nữa, vậy mà có thứ trời cho không biếu không là tiếng cười, bà con ta lại cứ hè nhau mà tiết kiệm. Ở Việt Nam đã vậy, qua tận Tây, Mĩ chúng ta cứ thế mà … không chịu cười. Cười để giải tỏa nỗi niềm, khuây khỏa u buồn, giữ gìn sức khỏe, thanh tẩy tinh thần. Để chúng ta còn sáng tạo nữa chứ. Cười – còn là thứ vũ khí phê phán hữu hiệu.
Dân Scotland nổi tiếng thế giới về hà tiện, vậy mà chính từ xứ sở này nẩy nòi ra bao nhiêu chuyện cười đặc sắc về tính khí đậm đà bản sắc này: cười mình để sửa sai. Sở dĩ bài viết của Nguyễn Văn Tỷ trong Tagalau4 gây sốc, khiến bà con phản ứng hơi quá, không gì cả: chỉ bởi trong đó thiếu nghiêm trọng tiếng cười. Ông viết bằng nhiệt tình: thiện chí có thừa, lập luận với dẫn chứng không thiếu, nhưng ông đã quá căng. Thành ra thiên hạ làm căng lại!(8)
Căng quá chỉ đau tim phổi thôi, lây lan sang bao tử nữa. Cố gắng cười đi, rồi thế giới sẽ thay đổi. Còn nếu thế giới không thay đổi thì ít ra tâm hồn chúng ta thay đổi. Từ đó thơ văn chúng ta sẽ thay đổi theo.

____________________
Chú thích:

(1) Moussay, G., Dictionaire Căm – Vietnam – Francais, Phan Rang, 1971.
(2) Trích dẫn từ: Inrasara, Văn học Chăm – khái luận, Nxb.VHDT, H., 1994.
(3) Các phân tích và trích dẫn từ: Inrasara, Văn học Chăm – Trường ca, Nxb.VHDT, H., 1996.
(4) Núi trắng (Tagalau4), Nxb.Văn Nghệ, Tp.Hồ Chí Minh, 2004, trang 186-187.
(5) Inrasara, Văn học Chăm – Trường ca, trang 280-283.
(6) Kho tàng truyện cười rất phong phú, nhưng đến hôm nay chúng đã gần như tuyệt tự, lạ là chưa có nhà sưu tầm văn học dân gian nào chú ý sưu tầm chúng cả. Chúng ta cứ lo “nghiên cứu” những cái đã được nghiên cứu rồi. Đáng tiếc lắm thay!
(7) Xem thơ của hai bạn thơ trong Tuyển tập Tagalau từ số 1 đến số 5.
(8) Xem: Nguyễn Văn Tỷ, “Thực trạng xã hội Chăm”,…. trong Tagalau4; và “Trao đổi xung quanh bài Thực trạng xã hội Chăm”, trong Tagalau5.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *