HIỂU THÌ YÊU HƠN 14: Cham tự nhìn mình

1. Dân tộc biết tự phản tỉnh là dân tộc đã khôn lớn. Vậy Cham nhìn khuyết điểm của mình thế nào? Dù không là đại diện chính thức, nhưng với vị thế và uy tín của họ, tôi xin tạm nêu 4 tật xấu của Cham do hai vị thuộc thế hệ đi trước đề cập đến trong tác phẩm khá nổi tiếng của mình.

– Câu kết ca khúc “Khik Bhum Pachai” của nhạc sĩ Đàng Năng Quạ:
Nưmmưk drei lihik, pajaih drei karang, kaywa Cham drei LO KANHJAH hatai tian”. Tạm dịch là: “Di sản mình đã mất, giống nòi mình tổn hao, bởi lòng dạ Cham mình LẮM NHỎ NHEN”. (Nưmmưk: nghĩa đen là “dấu vết. di tích”, ở đây nên hiểu là di sản).

Ba “bản chất” Cham do Nguyễn Văn Tỷ nêu trong đặc san Tagalau 4, 2004.
– Bản chất “Jhak hatai”.
“Tôi xin nhấn mạnh đây là bản chất chứ không phải hiện tượng. Nó kiềm hãm bước tiến xã hội rất lớn bởi vì mọi người lại ưa tị hiềm nhau, người này muốn dìm người kia, và tự dìm lẫn nhau”.
– “Chơk karơk” (dốc phách, thiếu khiêm tốn).
“Nếu Jhak hatai kiềm hãm bước tiến xã hội thì “Chơk karơk” tác hại gấp đôi! Người Việt có câu “Muốn biết thì hỏi, muốn giỏi thì học” đầy khiêm tốn và khôn ngoan, còn Chăm rất ngại hỏi người khác vì sợ người ta biết mình dốt, khinh mình!”
– Háo danh.
“Háo danh khác tham vọng. Nếu tham vọng muốn đạt được cái gì đó cao hơn trong mục đích phục vụ cộng đồng thì háo danh chỉ mong thỏa mãn ước muốn thấp hèn của bản thân, bất chấp khả năng mình ra sao”.
Các phân tích và nhận định thẳng thừng trên của Nguyễn Văn Tỷ bị một bộ phận cộng đồng phản ứng dữ, đến tôi phải đính chính ở Tagalau 5, mới yên.

2. Minh giải
– “Lòng dạ lắm nhỏ nhen” là ca từ trong ca khúc, nhạc sĩ nêu lên tật xấu Cham làm câu kết, nghĩa là ông muốn nhấn mạnh. Nghĩa từ điển: Nhỏ nhen là hèn mọn vụn vặt, không đáng kể.
Như A viết bài đấu tranh cho cộng đồng, B vốn thù A từ lâu; B thấy bài viết của A có lỗi nhỏ mang tính ngữ pháp, B bắt bẻ lỗi đó rồi tấn công cả con người B, mà quên rằng khi làm thế, A dễ nhụt chí mà bỏ cuộc – thiệt cho cộng đồng.
Bạn hữu đang chung gánh vác một việc, khi C thấy D có vẻ nổi trội hơn mình, C liền tìm mọi cách xuyên tạc D, để chỉ có riêng mình bật lên, mà không biết rằng đó là cách nhanh nhất để phân tán lực lượng. Đây là hèn mọn vụn vặt.
– “Jhak Hatai” của Nguyễn Văn Tỷ cũng mang nghĩa tương tự “Kanhjah Hatai” của Đàng Năng Quạ, nhưng ở mức độ nhạt hơn. Đồng dao “Kwik Kwak” thể hiện khá chuẩn tinh thần “xấu tâm”, đố kị, kèn cựa:
Kwik đik cabbak – Kuw lauk gilaung
Kwik hu kaung – Kuw hu karah
Kwik hu brah – kuw hu jien…

(Kwik leo cổng, ta chui rào/ Kwik có còng, ta có nhẫn/ Kwik có gạo, Ta có tiền…)
Kwik Kwak chung làng cùng nghiệp thì vậy, chứ ở Cham có không ít kẻ ngành nghề không liên quan gì nhau vẫn cứ Jhak Hatai, mới lạ.
– Về Chơk Karơk
Biểu hiện rõ hơn cả ở cách Cham ứng xử với Xakawi (Lịch Cham) & Akhar thrah (chữ viết). Cham không biết Xakawi là tệ không biết để đâu, thế là học. Biết thì phải thể hiện ra cho làng trên xóm dưới biết ta biết, thế là làm. Chỉnh sửa chút đỉnh cho khác người kia là thành Xakawi CỦA mình.
Còn Akhar thrah, vài vị mới qua lớp tiếng Cham căn bản đã đòi soạn tự học tiếng Cham; vị khác thì phải tranh cãi với ai đó (càng nổi tiếng càng tốt) để chứng tỏ ta cũng ngon lành như ải như ai. Tội hơn cả là, diễn. Không biết hay biết qua loa cũng diễn, bởi lẽ nào mang danh học thức mà không biết mọi ngọn ngành, ngóc ngách về văn hóa dân tộc mình. Hổ chết!
Nhưng đó là chuyện liên quan đến nhận định của hai vị thầy khả kính. Tôi có cái nhìn khác.

3. Phần tôi, dịu dàng với yểu điệu hơn. Trong Văn hóa – Xã hội Cham, nghiên cứu & đối thoại (NXB Văn học, 2002) tôi “điểm danh 10 khuyết tật Cham” và phân tích với dẫn chứng mà không phê phán.
“Chơk karơk” [trong đó có một phần kiêu ngạo], khía cạnh nào đó là đức tính, chứ không phải tật xấu Cham. Ở Status “GIẢI TRÍ CUỐI TUẦN. 15 câu hỏi ngắn dành cho Inrasara”, tôi viết:
Đức tính ông yêu thích nhất nơi người Cham? – Kiêu ngạo.
Còn tật xấu? – Kiêu ngạo không ra trò.
Đó là chuyện cũ, xin cho vào ngoặc. Theo tinh thần series “Hiểu thì yêu hơn”, để khỏi mếch lòng, tôi tạm kê ra đây 3 thiếu khuyết chính của Cham hôm nay, như là đối trọng tinh thần Cham xưa. Nhấn về sinh hoạt văn hóa – xã hội.

Phiêu lưu, nhưng chưa đủ
Cham xưa phiêu lưu đáo để, là chuyện ta nói qua rồi.
Thời hiện đại, tôi chứng kiến vài sinh linh Cham phiêu lưu lang bạt, dọc ngang trời đất. Ví như D. đồng hương tôi, từ một anh y tá tỉnh lẻ bỏ vào Sài Gòn phát huy tài năng thiên bẩm của mình và làm nên, là một điển hình. Dẫu sao hiện tượng đó không nhiều. Tinh thần phiêu lưu ở Cham sụt giảm trông thấy. Lĩnh vực nghiên cứu, sao cứ nhè kiến trúc với điêu khắc, tôn giáo với phong tục tập quán, mà không là âm nhạc? Sao mãi hôm nay thế hệ Cham vẫn chưa trình ra thế giới bộ “Âm Nhạc Cham”? Nghề nghiệp, sao ta cứ kĩ sư, bác sĩ đến nhà giáo mà không là gì khác? Sao cứ nhà thơ, mà không là nhà báo? Nhà báo đúng nghĩa nhà báo…

Ham hiểu biết, nhưng vẫn là tín đồ của Triết lí hổng chân
So với cả nước, và với điều kiện ít thuận lợi, mặt bằng học thức Cham như hôm nay là khá cao. Tôi thấy nhiều Cham giỏi, thong minh, tháo vác nhưng chưa đủ.
Ta ưa nhận định về văn chương, về ngôn ngữ trong khi ta chưa học biết rốt ráo bộ môn đó. Chưa rốt ráo mà ta cứ tranh cãi, không là môn đệ của Triết lí Hổng chân sao? Đâu phải cứ biết đọc mặt chữ là có thể bình luận về tác phẩm văn chương. Biết đọc mặt chữ, bạn có thể đọc hiểu một bài báo, một tiểu luận, còn văn chương thì khác. Có năng khiểu thẩm định văn chương đã đành, bạn còn theo dõi tiến trình văn học Việt Nam và [phần nào đó] thế giới; nữa: bạn cần nắm căn bản các lí thuyết văn học, chỉ khi đó thôi bạn mới cơ may nhận định văn bản văn chương nào đó có thể gọi là nghe được.

Thiếu nền tảng dẫn đến thiếu tự tin
Thiếu tự tin, nên ta ưa bình luận chê bai sau lưng; để khi ra diễn đàn, thì tắt.
“Trai khôn chọn vợ chợ đông/ Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân” – người Việt nói thế.
Nhớ, mùa Hè 1993, đọc qua bản thảo Từ điển Chăm – Việt, rất nhiều vị cho “thằng Trạm sai hết” (dĩ nhiên nói sau lưng), đến lúc mở Hội nghị Góp ý Từ điển tại Phan Rang gồm gần 200 người có học toàn Cham, Hội nghị lại do Cham là Thiết Ngữ chủ trì, vậy mà rất ít ý kiến được nêu ra, dù tôi dành một buổi cho hội trường nêu cái sai, “chỉ cái sai của bản thảo thôi” (xem thêm Hàng Mã Kí Ức, 2011).
RẤT ÍT ý kiến được nêu ra trên hội trường, bởi thiếu tự tin: sợ hỏi sai, sợ hố trước ba quân. Còn ở thời buổi chữ nghĩa mạng, không ít người kí nickname phê phán này nọ cũng là biểu thiện sự thiếu tự tin.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *