HIỂU THÌ CÀNG YÊU HƠN 09. Tinh thần phiêu lưu Cham 2 & 3

Ở “Tư duy biển lớn” tôi nêu truyền thống tinh thần phiêu lưu Cham qua những cuộc viễn dương tạo đã nên nền hải sử Champa dài và sâu, từ thứ V đến thế kỉ thứ XV với các cột mốc minh dẫn, để sau đó nhà Nguyễn [và Việt Nam hôm nay] tiếp nhận nó; thế nên Tạ Chí Đại Trường mới nói “ý thức đại dương ĐẾN MUỘN trong đầu óc người Việt”, ông bạn FB người Việt của tôi nghĩ thế là “ôm đồm” quá, kêu lên:
– Trời đất ơi!
– Trời biển ơi! – Tôi kêu đáp lại, – tôi nêu có mỗi LUẬN ĐIỂM DUY NHẤT thôi mà.
Ngày xưa, hai bà bạn thân là mẹ tôi và bà Hai Mót – bà mẹ người Việt quê Hải Chữ qua Chakleng được bà con cho ở nhờ mở quán cạnh nhà tôi – cũng hệt vậy. La chị Mót, bà kêu: trời đất ơi, thì có ngay bên này hàng rào, mẹ tôi la chị Hám: trời biển ơi (Lingik tathik lơy).
Người Việt nhìn lên thấy trời, cúi xuống thấy đất; Cham thì khác, dưới chân họ là mênh mông biển nước. Cham có làm ruộng (đất), nhưng đó là cánh đồng miền Trung nhỏ hẹp bốn mùa hanh gió. Tổ tiên Cham xưa chủ yếu sống bằng nghề biển, nhờ biển và với biển. Họ kêu trời kêu biển (Ew lingik ew tathik) chứ không phải “la trời la đất” như người Việt. Cũng vậy, người Cham nói “Mưa tối trời tối biển” (Hajan xup lingik xup tathik) khác với người Việt là: Mưa tối mù trời đất.
Hẹn giờ giấc lên rừng lấy củi cũng nói: Tuk ia tathik đik – Lúc thủy triều lên (khoảng 1 giờ sáng). Để chỉ kẻ “nói thánh nói tướng”, Cham vận đến “biển” với thành ngữ Đom ngauk lingik ngauk tathik – Nói trên trời dưới biển. Gặp thế bí hay đường cùng, họ cũng lấy “biển” ra mà ví: Wơr glai yuw ralai di krưh tathik – Quẩn trí cùng đường như thân ralai giữa biển khơi. Nghĩa là biển tràn ngập đời sống, văn chương và ngôn ngữ Cham.
Lối sống khác, lối nghĩ khác làm nên lối nói khác, là chuyện bình thường.
Hai thế kỉ qua, Cham không còn làm nghề biển nữa, nhưng biển vẫn còn sống trong đời sống và tâm thức Cham.

*
Tiếng nói bình dân ngày thường là vậy, trong văn học viết Cham, biển cũng có mặt khắp. Trong sử thi, thể loại văn học xuất hiện từ khá sớm, nhất là ở hai tác phẩm lớn là Akayet Inra Patra Akayet Dewa Mưno được văn bản hóa từ thế kỉ thứ XVI-XVII, biển và đại dương là bãi chiến trường cho các anh hùng tỉ thí. Để biểu thị cho mối quan hệ khăng khít của Po Tang Ahauk – một nhân vật trong lịch sử Champa – với biển cả, Damnưy Po Tang Ahauk viết:
Urang hu sang si đih
Po ngap anih dalam tathik
Urang hu sang si dauk
Po ngap danauk dalam tathik
Người có nhà để ngủ
Người cất chỗ trú giữa đại dương
Người có nhà để ở
Người lập nơi ngụ giữa đại dương
.
Cuộc sống của ông không giống bất kì cuộc sống của một người nông dân nào khác mà định mệnh gắn liền với đất, vì đất liền không phải là quê hương của ông. Một cái nhà: không, một nơi cư trú cũng không nốt. Ông là chủ nhân đồng thời là tù nhân của biển cả. Biển cả là nơi ông sinh ra, tung hoành, tạo nên sự nghiệp rồi biến đi. Nội dung đoạn mở đầu của Damnưy được biến thành điệp đoạn, như đã thâu tóm cả cuộc sống và định mệnh của ông. Cạnh đó, Damnưy cũng không quên đề cập con tàu-ngôi nhà của ông:
Ahauk praung kluw pluh tajuh
Tagok mưk nhjuh bbauk chwai palau
Ahauk praung kluw pluh tajuh tapa
Tagok mưk ia bbauk chwai palau
Tàu to ba mươi bảy
Pô lên kiếm củi trên cù lao
Tàu ba mươi bảy sải
Pô lên lấy nước trên cù lao

(Inrasara, 2011, Văn học Chăm khái luận, NXB Tri Thức, tr. 50).
Đi biển, người Cham chế tạo nhiều phương tiện với kích thước và hình dáng khác nhau. Thông dụng là thuyền (gilai), nhỏ hơn là ghe (gaiy). Gắn với thuyền có “bè” (rakik) như là phương tiện phụ để vận chuyển từ thuyền này sang thuyền khác, hay từ thuyền về đất liền. Thuyền cũng có loại thuyền độc mộc mà Cham gọi là pluk, và thuyền thúng (?) (janưk patih). Phương tiện lớn hơn là tàu (kapal) hay loại tàu lớn (ahauk, gilai ahauk) có khả năng viễn dương. Po Tang Ahauk đã sử dụng loại tàu này.
Tàu ông dài 37 sải tương đương với 60 mét, dù là một con số tương trưng, nó cho ta hình dung ông đang điều khiển con tàu rất lớn ở thời điểm đó của lịch sử. Con tàu chứa cả đoàn người cùng bao nhu yếu đáp ứng đầy đủ sinh hoạt của con người. Nó lớn đến không thể ghé đất liền mà chỉ tạt qua cù lao để lấy củi, nước ngọt. Tác giả Damnưy không cho ta biết tên cù lao, nhưng người đọc vẫn có thể tưởng tượng đó có thể là Cù Lao Chàm hay ít ra cũng là đảo Phú Quý của hôm nay.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *