V.T. Hạnh Thủy: Inrasara – Tận hiến và vô danh

Trích đoạn Luận văn Thạc sĩ: Thế giới nghệ thuật thơ Inrasara, 2008.

Nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ ở một mình/ Nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ mang đầy hoa trái (Kinh Phúc âm).

Đó là hai câu Phúc âm ám ảnh Inrasara trong một buổi chiều cuối thu mưa phùn, giá rét Hà Nội khi lòng anh đang “rỗng” để cho những nghiệm sinh tràn về/ thức dậy.: “Những con người bình thường đến tầm thường, những con người làm việc cật lực trong nỗi vô danh của hạt thóc vãi rơi sau vụ gặt thịnh mùa, chịu ở lại với đám ruộng bỏ giá suốt những tháng hạn, với nắng gió, chim chóc… để bật lên cây lúa chắc nịch sau những ngày mưa đầu năm; những con người chịu nở trọn lòng mình trong bóng tối… luôn cuốn hút tâm hồn tôi một cách kì lạ… Chúng ta đến, chúng ta đi, và chúng ta bị quên lãng. Có thể những tên tuổi này cũng sớm bị lãng quên trong kí ức mọi người, như họ mong được thế. Như hạt giống chỉ muốn mình bị lãng quên để có được cây lúa xanh tươi trổ bông chĩu gié cho đời người và cho mùa sau”. (Tiểu luận “Nếu hạt lúa không chết đi…”/ Văn hoá – xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại).

Và người viết, ám ảnh nỗi ám ảnh của anh. Vì sao hai câu Phúc âm ấy ám ảnh Inrasara?

Có thể ví thế này chăng? Giống như sóng, sẵn có nước hồ, gặp gió thổi tới, sóng lăn. Câu phúc âm bao trọn một nhân sinh quan tốt đẹp ấy chỉ có thể làm xúc động, ám ảnh Inrasara chỉ khi trong anh cũng chứa mầm hạt giống ấy. Sâu xa hơn, lay động thẳm sâu hơn, khi tinh thần của câu Phúc âm kia gần gũi/ tồn chứa trong chiều sâu văn hoá Chăm – thứ tinh chất mà anh hút nhụy: Ấy là tận hiến và vô danh.

Chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng Ấn, Chăm, gần như không có sử. Con người, địa danh, những sự kiện lịch sử hoá thân/ tồn tại theo phương thức huyền thoại trong lòng đồng tộc. Những công trình kiến trúc chùa tháp Chăm vô danh, cô độc, kiêu hãnh giữa vũ trụ nhân gian, những nghệ nhân Chăm không tuổi tên, vô danh cùng trời đất. Nhưng là sự vô danh để cho sáng tạo hiện tồn/ trường tồn:

Hãy hình dung trăm ý tưởng tài hoa chịu làm vô danh cho tháp Chàm có mặt

hãy hình dung thêm vạn bàn tay sần chai vì nó, đã ẩn mình

thì có sá chi thơ anh cõi còm chiều ngày tất bật

hãy thả cho gió bạt chúng về mấy cõi hư vinh.

(“Ngụ ngôn viết cho mình”, Hành hương em)

Trong văn học Chăm, hầu như tất cả các tác phẩm đều vô danh hoặc khuyết danh, dù có không ít sáng tác đậm phong cách cá nhân. Đây là một hiện tượng lạ. Đọc các bản chép tay Chăm, điều ít người chú ý: tên tuổi người chép được ghi rất trang trọng, trong khi tác giả nó luôn bị bỏ qua. Hơp Ai là tác giả Ariya Ppo Parơng nhưng hiếm khi chịu ghi tên ông vào bản chép tay khi chép tác phẩm ông. Vô danh, được vô danh là tư tưởng rất quan trọng trong nhân sinh quan Chăm. J. Krishnamuti – Sư tổ Thông thiên học, hậu duệ sáng danh nhất của Bà-la-môn giáo đã phân tích thâm hậu tinh thần đồng hoá của con người ở tầng sâu vô thức. Cảm thức của triết học tâm linh Ấn: Con người khi biết mình không là gì cả, đã hãi sợ và chạy tìm bấu víu. (E. Fromm gọi là “chạy trốn tự do”). Đồng hoá với một học vị (tiến sĩ chẳng hạn), tước vị (tôn nữ), danh vị (nhà thơ, học giả), tự đồng hoá với một thần tượng, một quốc gia, một tổ chức (là cán bộ của cơ quan A, cơ quan B…) hay nhỏ hơn – một gia đình (sinh trong một gia đình trí thức), hoặc thậm chí, một thói tật. Bấu víu lấy nó, đồng hoá với nó, con người được là cái gì đó. Trong khi ở sâu thẳm tâm hồn họ không là cái gì cả. Chính sự sợ hãi căn nguyên (xao xuyến: angoisse) đã buộc con người chạy trốn như thế.

Vô danh, với Inrasara bắt nguồn từ những nghiền ngẫm của anh về lẽ đời, về hữu hạn và hư vô, về nỗi vô thường của con người, từ việc thấu hiểu định phận mong manh của con người, thấu nhận rõ cái đích hiện sinh, ý nghĩa hiện sinh của mỗi cá thể người:

Cái đích cuối cùng của cuộc hiện sinh không là gì cả

Nhưng lẽ nào chúng ta sống không làm gì cả

Để cho cuộc đời chúng ta không ra gì cả…

 

Người đời chọn: cái sướng, niềm vui

Nhưng chính vết thương, nỗi đau

Đã nâng chúng ta bay cao, khôn lớn

 

Là già cỗi

Khi trái tim đã khép kín

Khi linh hồn chưa tuôn trào

Khi hoài vọng hết bay cao

Khi đôi chân mãi kéo lê trong đầm lầy kí ức

 

Hãy sống như một bùng vỡ

Một bùng vỡ không cần đến tiếng động ồn ào.

(“Đoản thi thứ nhất dành cho con”, Sinh nhật cây xương rồng)

Cũng có thể lý giải vô danh bắt nguồn từ quan niệm vòng đời của Chăm. Chăm vẫn quan niệm, cõi trần là cõi tạm. Cuộc đời là cõi tạm, nên con người nhẹ nhõm thênh thang trên cõi đời. Con người vô danh trên cõi đất. Đây chính là vẻ đẹp tâm hồn Chăm, giá trị thực của Chăm được đứa con Chăm nâng niu, thấu cảm:

Người Champa đã đến đất này

đào mương trồng lúa

đốt rừng làm rẫy

yêu nhau

sinh con đẻ cái

làm thơ rồi ra đi

gởi Mĩ Sơn ở lại

(“Những dấu chân ơn nghĩa”, Lễ Tẩy trần tháng Tư)

Tự hào, biết ơn truyền thống vô danh của dân tộc, Inrasara lặng lẽ uống nguồn dưỡng chất ông cha để lớn dậy. Nhưng, kẻ tận hiến trong Inrasara còn bắt nguồn từ một tình yêu và niềm kiêu hãnh, từ ý thức mình là đứa con Chăm:

Con không thể chọn làm đứa con tổng thống Pháp hay cháu đích tôn quốc vương Brunei

con không thể chọn ra đời ở Thái Lan hay Mĩ quốc

con là Chăm ngay ban đầu vỡ ra tiếng khóc

(còn hơn thế: chín tháng mười ngày trước khi vỡ tiếng khóc)

khi con cắm rễ nơi đây

hay khi con lang bạt tận cùng trời

con cứ là Chăm cả lúc cháy lên cùng ngọn lửa cuối đời.

 (Lễ Tẩy trần tháng Tư)

Từ ý thức mình là đứa con Chăm, từ niềm kiêu hãnh về dòng máu Chăm chảy trong cơ thể mình, Inrasara đi đến khẳng định một trách nhiệm thẳm sâu:

… Để nuôi ta, ta rút tinh chất từ cha ông/ Thì phải cất cho đời sau dòng nhựa. (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Nhẹ nhàng mà sâu lắng, Inrasara gửi đến người đọc một tư tưởng/ ứng xử nhân sinh cao đẹp. Từ đây, anh lặng lẽ tận hiến cho quê hương.

Hơn ai hết, Inrasara ý thức được giá trị của những “dưỡng chất cha ông”, giá trị của trí tuệ, tâm hồn và tình cảm cha ông gửi gắm trong những dưỡng chất ấy, và anh thấu hiểu, những dưỡng chất ấy, chỉ dưỡng chất của cha ông mới có thể nuôi dưỡng tâm hồn của những đứa con Chăm hôm nay. Chỉ mạch nguồn trí tuệ, tâm hồn tình yêu của cha ông mới đủ sức chở che những đứa con Chăm thoát khỏi nỗi gió mưa/ vấp ngã cuộc đời. Như vậy, sự tận hiến của Inrasara còn bắt nguồn từ chính tình yêu/ nỗi lo cuộc sống/ những mảnh đời Chăm hôm nay. Anh là người mang niềm vui trong trẻo của trẻ nhỏ, vô danh bắc nhịp cầu nối quá khứ/ truyền thống cha ông vào hiện tại đời, nối những phận đời Chăm quê anh vào cùng sống trong ngôi nhà đồng tộc bình yên. Anh như hoa xương rồng trên đồi cát cháy Phan Rang, giấu nỗi buồn phận, mang nỗi vất vả nhọc nhằn sa mạc để sẵn lòng cháy sáng cho quê hương.

Anh như ngọn tháp Chàm “… làm việc trong vô danh, cày xới trên đám ruộng bỏ hoang vô chủ/ không hy vọng cơn mưa rào bất chợt/ bất kể nắng, gió, bão, chớp giật, lũ quét/ bất kể áp thấp, mắc cạn, tắc đường/ (mùa màng có thể trắng tay)/ Cho buổi tiệc mai đạm bạc/ (“Sầu ca trên đỉnh tháp”, Lễ Tẩy trần tháng Tư)

Vô danh và tận hiến đem đến cho anh niềm tin vẹn nguyên, trong trẻo:

Sẽ bật lên

tiếng thơ đến sau tiếng thơ cuối cùng

hơi thơ dài lâu nén dồn lồng ngực

sẽ bật lên

hạt mầm vùi sâu hơn hạt mầm vùi sâu nhất

sau trận mưa tháng năm

rì rào cho đời khúc hát xanh.

(“Ngụ ngôn viết cho mình”, Hành hương em)

Từ ý thức tận hiến này mà tha hương, với Inrasara mới được khám phá ở bình diện mới mẻ, tha hương như là trách nhiệm, tha hương là để tận hiến với quê hương:

Ngày mai/ còn ai tha hương bụi bặm/ để mùa vàng trở về/ lần nữa tôi xưa? (“Sông Lu và tôi”, Hành hương em)

Inrasara như con sông Lu kiêu hãnh cô đơn chảy trôi ra biển rộng để mang chở về nguồn những hạt giống phù sa. Anh là Kẻ canh đêm ẩn sâu mình vào bóng tối để có thể nghe thấy tiếng nói của những đêm thiêng, tiếng nói của những bản thể cô đơn bị bị lãng quên trong bóng tối ngàn vạn năm, anh như cây xương rồng sẵn sàng cháy sáng giữa đồi cát Phan Rang khô khát…

Dường như với Inrasara, tận hiến là hoan ca giữa lòng cuộc đời.

Tận hiến, ở một góc nhìn nào đó rất gần với tư tưởng Nho gia. Con người Nho gia sinh ra dấn thân lập danh, lập nghiệp, tận hiến cứu đời nhưng cũng là để lập thân, để khẳng định Tài – Tâm – Chí, để thân mình không bao giờ vô danh trong vũ trụ đất trời, trong lòng người. Nguyễn Công Trứ – đại biểu của Tư tưởng Nho gia trong khát vọng lập thân, lập danh trăn trở: Mà chữ danh liền với chữ thân/ Thân đã có ắt danh âu phải có… Hay: Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông; Rồi: Không công danh thà nát với cỏ cây.

Ngược lại, với Chăm, con người trong tuyệt đỉnh tận hiến là được vô danh cùng với cỏ cây, vũ trụ.

Và như vậy, Inrasara qua thơ mình đã tải chở/ làm hiện thể lên chiều sâu văn hoá Chăm. Hơn thế, anh đã mở rộng chiều kích văn hoá ấy bằng tình yêu tha thiết của mình đối với quê hương. Anh đã làm được điều anh nói: “Văn hoá Chăm không phải là xác thối để diều bâu quạ rỉa… tôi ngụp lặn trong văn hoá Chăm, lớn dậy và làm giàu có cho nền văn hoá mình”.

Nếu diện mạo của thế giới nghệ thuật chính là bức chân dung tinh thần của người nghệ sỹ thì chân dung tinh thần của Inrasara được vẽ đậm nét qua ba phương diện cơ bản: Một đứa con của tâm thức Chăm; Một đỉnh thẳm cô đơn – tự tại của cư sỹ Bà-la-môn; Một đứa con Chăm tiếp nối truyền thống cha ông tận hiến vô danh cho quê hương. Cả ba phương diện đó đan bện vào nhau, làm hiện thể nhau mà lõi của nó chính tình yêu quê hương Chăm, sự thấu hiểu văn hoá Chăm, sự thấu nhận định phận người mong manh của Inrasara. Đó chính là cuộc hạnh ngộ của tình yêu – văn hoá – tư tưởng trên bước đường Inrasara hành hương tìm quê hương tâm linh của mình.

 

2 thoughts on “V.T. Hạnh Thủy: Inrasara – Tận hiến và vô danh

  1. Người phụ nữ này là ai mà hiểu nhà văn người Chăm sâu sắc đến thế? Chị viết đoạn văn ít ai viết được. Tôi xin cắt in lại nguyên văn:
    Nếu diện mạo của thế giới nghệ thuật chính là bức chân dung tinh thần của người nghệ sỹ thì chân dung tinh thần của Inrasara được vẽ đậm nét qua ba phương diện cơ bản: Một đứa con của tâm thức Chăm; Một đỉnh thẳm cô đơn – tự tại của cư sỹ Bà-la-môn; Một đứa con Chăm tiếp nối truyền thống cha ông tận hiến vô danh cho quê hương. Cả ba phương diện đó đan bện vào nhau, làm hiện thể nhau mà lõi của nó chính tình yêu quê hương Chăm, sự thấu hiểu văn hoá Chăm, sự thấu nhận định phận người mong manh của Inrasara. Đó chính là cuộc hạnh ngộ của tình yêu – văn hoá – tư tưởng trên bước đường Inrasara hành hương tìm quê hương tâm linh của mình.”

    Đây là lối khắc họa chân dung nhà văn Chăm không thể nào hay hơn. Tôi nhớ có tác giả viết bài “Inrasara- tháp Chàm 4 mặt” đăng ở tạp chí Diễn Đàn VN Việt Nam, nhưng bài đó không sâu, và nhất là không hay bằng đoạn văn ngắn này.

  2. Chính xác. Đây là tư tưởng căn cốt nhất của Inrasara mà luận văn nắm bắt được. Tôi cho là luận văn chỉ cần nêu được một ý mới thôi cũng đã đạt rồi. Các từ ngữ căn cốt tôi lượm ra nêu bật được tư tưởng này của Inrasara:

    Thấu hiểu định phận con người
    Trách nhiệm thẳm sâu
    Tuyệt đỉnh tận hiến
    Sáng tạo & Niềm vui
    Tình yêu & Biết ơn
    Đỉnh thẳm cô đơn
    Kiêu hãnh & Tự tại
    Vô danh & Hoan ca

    Hãy hình dung trăm ý tưởng tài hoa chịu làm vô danh cho tháp Chàm có mặt
    hãy hình dung thêm vạn bàn tay sần chai vì nó, đã ẩn mình
    thì có sá chi thơ anh cõi còm chiều ngày tất bật
    hãy thả cho gió bạt chúng về mấy cõi hư vinh
    .
    (“Ngụ ngôn viết cho mình”, Hành hương em)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *