Inrasara: ‘Hiện tượng’ thơ Nguyễn Quang Thiều, vài minh định

1. Hoàng Hưng, trong một bài trả lời phỏng vấn, đã nhận định:

Nhiều khi những hoàn cảnh xã hội chưa công bằng. Có thể có nhiều người tài nhưng xã hội chưa tạo điều kiện cho họ đi đến nơi đến chốn. Đâm ra chưa nổi lên được. Ví dụ: Nguyễn Quang Thiều, khi lúc đầu mới cách tân thơ cũng nhiều người chê bôi, nhưng khi anh ấy có địa vị một chút trong  Hội Nhà văn thì lại được đề cao. Đối với những người “ngoài lề” thì lại bị ác cảm, do vậy không nổi lên được. Như Bùi Chát trong nhóm “Mở miệng” chẳng hạn. Tất nhiên, bản thân các nhà thơ cũng chưa đủ mạnh để xã hội công nhận.”(1)

Đó là nhận định đúng. Đúng, nhưng chưa mạnh, chưa đủ. Cả với “hiện tượng” thơ Nguyễn Quang Thiều. Từ Sự mất ngủ của lửa (NXB Lao động. H., 1992) đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm sau đó cho đến Những người đàn bà gánh nước sông (NXB Văn học, H., 1995), sự “cách tân” thơ Nguyễn Quang Thiều đã gây nên dư luận hai chiều, cả khen lẫn chê, chứ không chỉ “nhiều người chê bôi”. Như vậy, nhà thơ này không phải “được đề cao” chỉ khi “có địa vị một chút trong Hội Nhà văn”. Riêng mệnh đề sau, cần xác minh thời điểm: Nguyễn Quang Thiều lần đầu tiên ngồi ghế [không “một chút” mà là rất] cao ở Hội Nhà văn Việt Nam từ khóa 2010-2015; bài trả lời phỏng vấn của Hoàng Hưng được thực hiện và lên báo ngày 1-6-2012; khoảng thời gian này, lác đác bài viết về thơ Nguyễn Quang Thiều đăng báo. Chỉ khi rục rịch Tọa đàm khoa học “Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều” từ đầu tháng 6-2012, sự “đề cao” mới rộ lên. Chẳng những đề cao mà là tụng ca, tụng ca thành một cao trào bất bình thường, đến gây dị nghị(2).

Dẫu sao, dù chê bôi, tụng ca hay dị nghị, đại đa số ít nhiều do hệ quả của “hoàn cảnh xã hội”. Rất đặc trưng Việt Nam. Bên cạnh ít bài viết có xuất phát điểm từ chính văn chương. Từ văn chương, chê – đa phần không có thái độ “đi vào trong” hệ mĩ học của thơ Nguyễn Quang Thiều để đánh giá nó, mà từ chân trời hệ mĩ học khác; còn tụng ca – người ta đã đặt vào đít/ chất lên vai nhà thơ này cái ghế/ quang gánh quá cao/ nặng trong hành trình thơ Việt đương đại. Cả hai đều là ngộ nhận. Còn thì, các xuất phát điểm phê bình luôn từ cảm tính với cảm tình, qua lăng kính đạo đức xã hội hay nhân danh truyền thống mà phê phán, từ đó hoặc tâng bốc ngất trời hoặc ghét bỏ mà toan phủi sạch các đóng góp của anh. Dễ thấy, không ít bài viết mang hơi hướng chính trị.

2. Thơ Nguyễn Quang Thiều có là một “hiện tượng”? Câu trả lời là: – có.

Đổi mới, trong khi đại đa số nhà thơ viết theo lối cũ, vài khuôn mặt mới xuất hiện nỗ lực làm mới thơ, trong đó Nguyễn Quang Thiều bật lên như một “hiện tượng”. Bốn tập thơ liên tục ra đời: Sự mất ngủ của lửa (NXB Lao động, H., 1992), Những người đàn bà gánh nước sông (NXB Văn học, H., 1995), Nhịp điệu châu thổ mới (Hội VHNT Hà Tây, 1997), Bài ca những con chim đêm (NXB Hội Nhà văn, H., 1999), đủ hình thành một giọng thơ riêng, độc đáo. Và, không ít nhà phê bình chẳng ngần ngại nhét vào tay anh “lá cờ đầu” cách tân thơ Việt.

Chính tại đây xảy ra nỗi nhầm lẫn lớn: nhầm lẫn của lịch sử. Thủ phạm vẫn là “hoàn cảnh xã hội”! Bởi, đi trước Nguyễn Quang Thiều một bước, vài nhà thơ “thời chống Mỹ” đã làm cuộc phá rào ngoạn mục. Nguyễn Duy phản biện xã hội qua hai tập thơ sáng giá: Nhìn từ xa… Tổ quốc (NXB Trẻ, 1989) và Kim mộc thủy hỏa thổ (tạp chí Cửa Việt, 1992)(3). Hay Thanh Thảo với Khối vuông Rubic (1985), Từ một đến một trăm (1988) thể hiện tư duy nghệ thuật mới lạ. Hoặc người cùng thế hệ như Dương Kiều Minh ở tập Củi lửa (1989) với nhiều “cách tân” khá thành công ba năm trước đó. 

Nữa, từ thập niên 60, chính Nhóm Nhân văn – Giai phẩm là kẻ [không phải cách tân mà là] khởi xướng cách mạng thơ Việt. Hoàn cảnh chính trị xã hội đã làm cho cuộc cách mạng nghệ thuật này nửa đường đứt gánh. Và dù sáng tác của họ bị cấm lưu hành, không thể nói thế hệ sau đó chưa từng tiếp cận “cách tân” kia. Mở cửa, khi tác phẩm của các tác giả thuộc nhóm thơ này được xuất bản công khai(4), họ đã không thể thay đổi được tình thế. Cả với tập thơ của nhà thơ thuộc thế hệ cuối của nhóm: Người đi tìm mặt (1993) của Hoàng Hưng, vừa đổi mới kĩ thuật bên cạnh tư tưởng thơ mang khả tính phản tỉnh xã hội; hay hàng trăm bài thơ của Phan Đan được viết cùng thời điểm nhưng mãi sau (2004) mới cơ hội đưa lên mạng Tienve.org. “Hoàn cảnh xã hội” chẳng những không tạo thuận lợi mà luôn tư thế đẩy họ về phía khuất. Thêm, lúc này, đại đa số nhà thơ thuộc trào lưu ấy đã ở kia sườn dốc của sức sáng tạo. Cuộc cách mạng thơ đã bị đánh cắp cơ hội một cách oan uổng.

Nguyễn Quang Thiều ngược lại, được cả thiên thời địa lợi nhân hòa. Ở thế thượng phong – anh biết tận dụng cơ hội khuếch trương tối đa giọng thơ tìm thấy. Nghĩa là bên cạnh tài năng, thơ Nguyễn Quang Thiều nhận đủ đầy yếu tố thuận lợi khác. Đồng tình hay không, thơ anh vẫn có hấp lực nhất định, tạo ảnh hưởng lan tỏa lên thế hệ thơ trẻ khu vực phía Bắc. Vừa hư vừa thực, Nguyễn Quang Thiều đã phủ cái bóng khá lớn lên một bộ phận thơ Việt đương đại. Lớn đến nỗi, khi lực thơ anh suy vi từ năm cuối thế kỉ XX và có dấu hiệu đuối, “lá cờ” [miễn cưỡng kia – có lẽ] vẫn chưa có ai [dám] nhận. Các nhà thơ thuộc thế hệ đến sau đó như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Thế Hoàng Linh,… dù có thoát được từ trường thơ Nguyễn Quang Thiều, họ vẫn chưa đủ sức che khuất cái bóng kia của anh.

Thế nào đi nữa, muốn đánh giá nghiêm túc một sự kiện hay tác giả văn học, cần phải có cái nhìn toàn cảnh. Gần 40 năm sau khi đất nước thống nhất, nền thơ hiện đại Việt Nam chưa nhận được đặc ân kia. Chỉ khi nào nhà phê bình có cái nhìn toàn cảnh tiến trình phát triển thơ Việt: trước và sau 75, Bắc và Nam, trong nước và hải ngoại, chính thống và phi chính thống… hắn mới hi vọng có được sự đánh giá công bằng. Còn thì, “đổ” hết tính mở đường cách tân thơ Việt cho Nguyễn Quang Thiều là một bất cập tai hại.

Ở miền Nam thì khác.

3. “Cách tân” của Nguyễn Quang Thiều có dính dáng gì đến thơ miền Nam đương đại không? Dứt khoát là không rồi! Không đầu tiên và cuối cùng. Nguyễn Đăng Điệp nhận định:

Với những bứt phá mạnh mẽ của Nguyễn Quang Thiều, ý thức cách tân về lối viết trở nên thường trực và riết róng.

Từ đây, đội ngũ làm mới thơ ngày càng đông đảo với sự hiện diện của Trần Quang Quý, Nguyễn Quyến, Mai Văn Phấn, Inrasara, Trần Tiến Dũng, Trần Anh Thái, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh,… Không cần cường điệu, có thể khẳng định dứt khoát: Tính đến thời điểm này, những cách tân nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều vào những năm đầu 90 của thế kỷ XX là những cách tân tạo được hiệu ứng nghệ thuật sâu đậm nhất trong thơ Việt sau 1975.”(5)

Một nhận định dễ gây hiểu lầm rằng các nhà thơ miền Nam đương thời nhận “hiệu ứng nghệ thuật” từ Nguyễn Quang Thiều, hay ít ra “cách tân” sau Nguyễn Quang Thiều(6). Non bốn năm trước, Inrasara viết:

Mười năm sau đất nước nhập một, cả khu vực rộng lớn này hầu như không nảy nòi một thi sĩ xứng danh nào. Mãi mở cửa cởi trói, các thi sĩ miền Nam mới rục rịch làm thơ trở lại, tìm mọi cách ấn hành để đưa sản phẩm của mình đến với công chúng. Ở đó, họ đã tiếp nhận nhiều truyền thống khác lạ. Thơ tự do, đi trước họ là mấy tên tuổi lẫy lừng: Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên,… Hậu hiện đại sơ kì, họ có một Phạm Công Thiện với vô lượng từ xô đẩy nhau vỡ bờ vỡ đê, cuồn cuồn khó hiểu nhưng đẹp và lôi cuốn lạ thường; một Bùi Giáng điên chữ, xáo trộn ngôn từ cả Việt lẫn Hán Việt vào bát quái trận đồ chữ liên tu bất tận, đọc chẳng hiểu ông nói mô tê gì cả nhưng vẫn cứ thích. Làm thơ bất kể ngôn từ thông tục, thông tục đến thô tục, họ có Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Tôn Nhan ở sau lưng. Thơ huyền ảo lãng đãng sương khói, Phạm Thiên Thư đã lừng lững. Thơ Thiền, thơ siêu thực, thơ hiện sinh, thơ điên, ca từ nhạc sến, nhạc vàng, vọng cổ… Nghĩa là không thiếu bất kì thứ gì. Quan trọng không kém là các bộ phân công chúng văn học khác nhau chấp nhận chúng là các sáng tạo nghệ thuật.”(7)

Các thi sĩ miền Nam tiếp nhận và thở hơi thở “truyền thống” kia, họ không thể chấp nhận loại thơ “quốc doanh” ở Sài Gòn sau 75 như đã. Mãi khi Đêm mặt trời mọc của Nguyễn Quốc Chánh được NXB Trẻ cho ra đời năm 1990, nền thơ miền Nam mới thực sự hồi sinh. Đêm mặt trời mọc thổi luồng khí mới vào sinh hoạt thơ Sài Gòn đang làm ảm đạm và nhàm chán. Nó không tự phong “cách tân”, mà bằng thái độ phản kháng mạnh mẽ cộng với tinh thần tự do tuyệt đối, nó đã chọn hướng đi khác hẳn với mặt bằng thơ đang diễn ra, cả với những gì được cho là “cách tân”, đổi mới thời thượng. Sau đó, Gieo & Mở (thơ và tiểu luận, NXB Đồng Nai, 2 tập 1995-1996) và Thơ Tự do (10 tác giả, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999) được trình làng. Tiếp bước, Trần Tiến Dũng cho ra mắt hai tập thơ có phong cách mới: Khối động (NXB Trẻ, 1997) và Hiện (NXB Thanh niên, 2000).

Các tên tuổi và tác phẩm kia – cùng với khí quyển văn nghệ được tạo nên bởi những tập thơ và sách báo người Việt hải ngoại nhập cảnh lén lút vào Việt Nam – dẫu bị hạn định trong không gian chật hẹp bởi “hoàn cảnh xã hội”, vẫn tạo nên hiện tượng mới và khác: hiện tượng thơ Sài Gòn. Nó hoàn toàn khác với thơ “cách tân” ở miền Bắc các loại. Khác từ tâm thế, thái độ và sinh hoạt, khác đến giọng điệu lẫn các thủ pháp nghệ thuật.

4. Khác nữa, “hiện tượng” ấy không đè chết các thế hệ thơ đến sau đó. Nói khác đi, các nhà thơ trẻ miền Nam không để cho “hiện tượng” hay “thần tượng” trước đó phủ bóng lên mình. Nguyễn Quốc Chánh sau Của căn cước ẩn dụ (Talawas.org, 2001) và Ê, tao đây (in photocopy, Sài Gòn, 2005) hay Inrasara với Lễ Tẩy trần tháng Tư (NXB Hội Nhà văn, H., 2002), Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức (NXB Hội Nhà văn, H., 2006) và Ở nơi ấy [thơ thời cuộc] (Tienve.org, 2010) hoặc Trần Tiến Dũng với Bầu trời lông gà lông vịt (Tienve.org, 2003), Hai đóa hoa trên trán cho công dân hạng hai (NXB Cửa, Sài Gòn, 2004) và Mây bay là bay rồi (NXB Cửa, Sài Gòn, 2010),… rồi Vũ Trọng Quang hay Trần Hữu Dũng, vân vân… không tạo bất kì áp lực nào lên thế hệ thơ đi tới.

Phan Bá Thọ, Bùi Chát, Lý Đợi,… xuất hiện sau 2002 đủ sức che khuất mấy cái bóng kia, hay ít ra, cũng đã song hành đĩnh đạc. Họ làm thơ, họ tuyên ngôn, họ mở nhà xuất bản [ngoài luồng] để in và “phát tán” tác phẩm của họ, của nhóm họ và của người cùng ý hướng nghệ thuật. Họ chọn thế đứng ngoài lề ngay khi vừa bước vào thế giới chữ nghĩa. Họ phản kháng quyết liệt – với thơ và thái độ thơ của nền thơ chính thống đương đại – đến thành đối kháng.

Sau đó không lâu, 2007 – hàng loạt khuôn mặt mới xuất hiện và cho ra mắt tác phẩm của mình: Lê Vĩnh Tài [giai đoạn sau], Vũ Thành Sơn, Nguyễn Viện [thơ], Tuệ Nguyên, Đoàn Minh Châu, Tiểu Anh, Lưu Mêlan, Chiêu Anh Nguyễn,… xác lập thế đứng riêng của thơ “người cùng thời”. Khác biệt vùng miền hay tuổi tác hoàn toàn không quan trọng. Họ có thể in giấy hay xuất bản trên mạng, có phép hay không có giấy phép của nhà xuất bản Nhà nước. Những đứa con của tự do này không bám cơ quan Nhà nước. Họ không dùng văn chương để tiến thân, để kiếm ghế hoặc để xác lập vị thế trong con mắt thiên hạ hay để lưu danh thiên cổ. Đây là trào lưu thơ giải trung tâm toàn triệt. Một cách giải trung tâm hậu hiện đại

Là điều hiếm thấy ở các nhà thơ miền Bắc.

5. Nguyễn Quang Thiều có hậu hiện đại không?

Không, và không thể. Dù anh đã rất “cố gắng” vận dụng vài thủ pháp hậu hiện đại ở Cây ánh sáng (NXB Hội Nhà văn, H., 2009) và Lò mổ (Maivanphan.com, 2009) sau đó. Không kể những “cố hương”, “kì vĩ”, “lộng lẫy” “thiêng liêng”, “bình minh”, “cao cả”, “vang rền”,… trước đó, mà cả những “lò mổ”, “chuột cống”, “chửi tục”, âm hộ”, “thủ dâm”, cùng cơ man thi ảnh có vẻ “phản cảm” sau này, Nguyễn Quang Thiều cứ mắc kẹt ở bên kia bờ hiện đại. Mắc kẹt và rớt lại phía sau. Anh vẫn còn đầy nghiêm cẩn, nghiêm cẩn đến nghiêm trọng. Tâm tính với tâm thức đó cản ngăn nhà thơ biết cười vào mấy nỗi nghiêm trang, nghiêm nghị, do đó anh không thể đưa thơ tiếp cận chất humor – humor hậu hiện đại. Như Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Hoàng Nam, Đỗ Kh. trước đó hay Phan Bá Thọ, Bùi Chát, Lê Vĩnh Tài sau này. Đó là chưa nói Nguyễn Quang Thiều xu hướng hướng tâm, từ thái độ thơ cho đến sinh hoạt nghệ thuật. Cho nên không thể đòi hỏi Nguyễn Quang Thiều hậu hiện đại, như vài người viết phê bình đã cố tình đẩy anh về phía xa xôi ấy(8). Hướng tâm, Nguyễn Quang Thiều không thể không né tránh các vấn đề thời sự cộm, cái cộm khả năng va chạm cơ chế mà anh là một bộ phận khôn rời.

Một nhà thơ còn escape from freedom thì vời xa cả vực thẳm với hậu hiện đại.

Sài Gòn, 2-7-2012

______________

(1) “Hoàng Hưng tuổi 70 vẫn đang ở giai đoạn tích luỹ”, Kim Anh thực hiện, http://laodong.com.vn/Lao-dong-cuoi-tuan/Nha-tho-dich-gia-Hoang-Hung-Chua-den-muc-la-khong-lam-tho-duoc-nua/67076.bld, 1-6-2012

(2) Theo eVan (25-6-2012), “Tọa đàm đã nhận được gần 30 tham luận của các nhà văn, nhà thơ, các nhà lý luận, phê bình văn học” cùng mươi bài lẻ khác sau đó.

(3) Hai tập thơ này in lại trong Nguyễn Duy – Thơ, NXB Hội Nhà văn, H., 2010.

(4) Dương Tường – Lê Đạt (36 bài tình, 1989), Hoàng Hưng (Ngựa biển, 1988, Người đi tìm mặt, 1993), Đặng Đình Hưng (Bến lạ, 1991), Lê Đạt (Bóng chữ, 1994, Ngó lời, 1997), Trần Dần (Cổng tỉnh, 1994),…

(5) Nguyễn Đăng Điệp, “Thơ Việt Nam đương đại từ trường hợp Nguyễn Quang Thiều”, http://vanvn.net/news/11/2171-doi-moi-tho-viet-nam-duong-dai-nhin-tu-truong-hop-nguyen-quang-thieu.html

(6) “Hiện tượng” thơ Nguyễn Quang Thiều hầu như không thể với tới các tỉnh phía Nam, nhất là thế hệ thi sĩ [cũ và mới] đã từng tiếp nhận truyền thống thơ miền Nam và từng thở hơi thở tự do của nó. Nguyễn Quang Thiều đã thế nói chi “hiện tượng” Vi Thùy Linh; với họ, đây như thể một cái gì buồn cười đến tội nghiệp.

(7) Inrasara, “Mai văn Phấn, kết thúc cho một khởi đầu”, Tienve.org, 17-1-2009.

(8) Tôi không nói Nguyễn Quang Thiều chuyển thơ mình sang khuynh hướng hậu hiện đại, mà nhấn vào các nhà phê bình đã gán hậu hiện đại cho thơ anh. Đó là một gán ghép vội vã và sai lầm. Đòi hỏi một nhà thơ phải làm thơ thời sự, thì không gì vô lí hơn. Ở đây là tâm lí né tránh nói chung. Tuyệt đại đa số nhà thơ chính thống Việt Nam đã chạy trốn thời sự nóng bỏng tác động đến toàn xã hội là Sự kiện Trường Sa – Hoàng Sa (kì đầu, 2007). Chỉ khi “được phép”, họ mới ồ ạt làm thơ yêu nước.  (Xem thêm: Inrasara, “Cảm thức thơ Việt qua hai kì sự kiện Trường Sa – Hoàng Sa”, BBC.co.uk/vietnamese, 9-7-2011; Tienve.org, 10-7-2011).

 

 

 

24 thoughts on “Inrasara: ‘Hiện tượng’ thơ Nguyễn Quang Thiều, vài minh định

  1. Tiểu luận thẳng thắn, viết rất công tâm.
    Thế mới đúng chất Inrasara!
    Tuyệt vời Inrasara.
    Thêm 1 ý tặng anh: nếu thơ miền Nam cũ chưa được xuất bản công khai, thì không thể nói công bằng. Người ta muốn giấu nó đi để lập lờ đánh lận con đen.

  2. Pingback: Tin thứ Sáu, 06-07-2012 « BA SÀM

  3. Khách quan, đúng.
    Tôi là một nhà thơ “Miền Bắc” nhưng ko thể đồng tình với cách nhiều nhà phê bình nghiên cứu “miền Bắc” hầu như ko biết đến Thơ của các nhà thơ phía Nam (nói chi đến Hải ngoại!) khi bàn về thơ cách tân đương đại. Thêm nữa, tư duy “phò chính thống” từ chỗ phò “quan điểm chính thống” (của Đảng) đã và đang “diễn biến” thành “phò các vị có địa vị chính thống”! Hỡi ôi!

  4. Bác Hoàng Hưng lâu lâu ghé vào đây viết còm hay quá!
    Người ta phò chính thống còn đỡ, suy đồi hơn là người ta mắt cận thị nên phò kẻ phò chính thống. Phò ngay cái tâm tính rất ngu ngơ và bậy bạ của họ. Mới phiền!!!!

  5. Bác Hoàng Hưng ôi,
    Địa vị như mấy bác mới dám cười kẻ đi phò kẻ đang phò chính thống. Cây Bút trẻ tụi em còn phải phò kẻ đang phò của kẻ đang phò cho kẻ mới phò một kẻ đã phò… Ôi chao lung tung mấy nấc tới mức muốn phò mà cũng tối om không tìm ra kẻ để phò.

  6. Anh Inrasara viết đoạn này quá xác đáng:
    Tuyệt đại đa số nhà thơ chính thống Việt Nam đã chạy trốn thời sự nóng bỏng tác động đến toàn xã hội là Sự kiện Trường Sa – Hoàng Sa (kì đầu, 2007). Chỉ khi “được phép”, họ mới ồ ạt làm thơ yêu nước.

    Nhà thơ Việt Nam hèn như vậy thì còn đòi hỏi họ cái gì! Chỉ được PHÉP mới dám yêu nước, mới dám làm thơ yêu nước. Làm một cách ồ ạt. Hèn!
    Hèn, cho nên họ chỉ còn biết nịnh bợ, phò chính thống để theo đóm ăn tàn. Tội! Chỉ có nước làm oai với dân nhà quê…

  7. Pingback: Tin thứ Sáu, 06-07-2012 | Dahanhkhach's Blog

  8. Bài viết rất tuyệt, rất trúng, chỉ đúng bản chất vấn đề.
    Nhà thơ Inrasara không chỉ là nhà thơ, mà còn là nghiên cứu, phê bình uyên bác của người Chăm. Những người như anh hiếm vậy thay.

  9. Pingback: Anhbasam Điểm Tin thứ Sáu, 06-07-2012 | bahaidao2

  10. Đọc bài nào của ông Inrasara cũng khoái. Ông uyên bác, sắc sảo, giọng văn lôi cuốn…
    Nhưng ông có nên dồn quá nhiều công sức vào nhiều lãnh vực như vậy hay không?
    Hết viết thơ đến tiểu thuyết, hết nghiên cứu lại đi thuyết giảng về văn hóa Chăm (bao quát), hôm nay thấy ông phê bình văn học (cũng rất đỗi bao quát), rồi là giảng bài về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam nữa….
    Ta cứ tưởng bở ta thừa sức, và ta phung phí…
    Có đáng không?

  11. Tôi có trong mình cả Nam và Bắc. Tôi yêu cả 2 miền và dĩ nhiên yêu những bài thơ, trào lưu thơ hay của cả hai miền. Nhưng dù tôi có khách quan đến tối đa, tôi cũng chỉ có thể tiếp nhận thơ 2 miền trên cơ sở trường lý luận, truờng thẩm mỹ và quan niệm sáng tác của riêng tôi. Vẫn biết những cuộc tranh luận văn chương dẫu ôn hòa cũng không bao giờ có đích cuối cùng, nhưng tôi ủng hộ và trân trọng các ý kiến tranh luận dù đó là ý kiến trái nguợc nhau.
    Tôi đặc biệt chú ý đến ý kiến của nhà thơ, nhà phê bình Inrasara trên đây, tuy vậy trong sâu thẳm tôi thấy âm ỉ một nỗi đau, ở chỗ những thành tựu lớn của nền thơ miền Bắc trong suốt 50 năm cuối thế kỷ XX vẫn chưa được các nhà phê bình đánh giá đúng tầm (điều mà trong bài viết này Inrasara có thừa nhận). Tôi cho rằng những cách tân của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là tài năng rất đáng kính trọng, dù anh không phải là ngọn cờ khởi xướng, nhưng anh là hấp lực và sự lan tỏa.
    Xin cám ơn nhà phê bình Inrasara.

  12. Thưa nhà thơ Lê Khánh Mai!
    Nhà thơ viết có lí lắm, đồng ý. Nhưng 50 năm thơ miền Bắc hay miền Nam?
    Người ta chưa làm hội thảo về thơ Nhân văn Giai phẩm, thì có công bằng không? Khi người ta làm hội thảo (chỉ) về một nhân vật thơ đương đại tại Viện lớn?
    Thơ miền Nam chưa được xuất hiện đồng bộ, dù gần 40 “giải phóng”, hỏi có công bằng không? Hỏi như vậy thì làm sao độc giả có thể so sánh?

    Theo tôi, tiểu luận của nhà thơ dân tộc thiểu số Chăm này dù ngắn nhưng nó CÓ TÍNH ĐÁNH ĐỘNG rất lớn. Cầu mong nhà thơ H Thỉnh, NQ Thiều đọc kĩ bài này mà suy nghĩ. Tôi rất cảm ơn anh Inrasara.

  13. Bài viết tuyệt vời, rất công bằng. Khó có ai bắt bẻ tính công tâm của nhà thơ Inrasara. Phải thật dũng cảm mới nói vậy được! Như anh đã dũng cảm nêu chuyện xét kết nạp hội viên, lần đầu tiên Phó Chủ tịch Hội đồng dám nêu ra điều này.

    Dân có quyền hỏi:
    – Tiền ở đâu làm hội thảo này?
    – Sao không làm về trào lưu, về giai đoạn, về sự kiện lớn… mà làm về cá nhân trong BCH?
    – Lăng xê người của mình như trên có ý đồ gì?

    Hội Nhà văn cần có nhiều người như Inrasara mới trong sạch được.
    Không thể không nói lời biết ơn nhà thơ.

  14. Tôi rất thích bài này.
    Các nhà phê bình Việt Nam hay làm người mù sờ voi, phán bừa.
    Ông Inrasara đã đề nghị cách làm rất hay, đưa ra một hướng mới. Hội nhà văn phải tiếp thu và cảm ơn anh ta.
    Tôi nhớ anh đã từng khen thơ Ng Quang Thiều là một trong 4 nhà thơ Việt quan trọng đương đại, nhưng làm quá thì anh ta nói. Anh ta lên tiếng như một nhà phê bình chân chính, thẳng thắn và công bằng. Chớ vì thế mà hè nhau ĐÌ anh ta, tội nghiệp lắm. các anh có quyền mà, làm gì mà chẳng được.
    Tôi ngoại đạo góp vài ý kiến.

  15. Về bài này, 2 ngày qua tôi nhận được gần 20 tin nhắn. Đại đa số ủng hộ. Xin trích:
    – Thích cái nhìn toàn cảnh về thơ Việt của bạn. Có điều lộ rõ cả hai miền không đọc thơ nhau. Cứ nhắm mắt mà phán bừa.
    – Hay lắm.
    – Viết trung thực và hay.
    – Rất thích đọc bài viết sắc sảo của anh.
    – Bài viết quá xác đáng và hay.
    – Bài viết rất hay. Miền Bắc bây giờ làm thơ hay làm gì đều cầu danh, cầu lợi. Họ không có gan để đứng ngoài, và quan trọng là không có cá nhân nào can đảm để bắt đầu điều này (chịu đứng ngoài rìa).

    Riêng đây là gợi ý quan trọng của bạn thơ D:
    Bài viết “Hiện tượng NQT” khách quan. Lâu rồi tôi mới đọc được một bài rất tốt về thơ.
    Cảm ơn Sara, nhưng cũng có chút điều nhận xét là: đã nói về ‘hiện tượng’ thì phải đặt cạnh ‘hiện tượng’, ngôi sao phải so sánh với ngôi sao. Không cần trưng ra mặt trận thơ đương đại, tính khách quan chỉ sáng rõ khi sao so sánh với sao. Có lẽ Sara nên đi qua thời kì viết điểm mặt lịch sử thơ đương đại mà đến thẳng với nhận định – phê bình chất lượng thơ đương đại, đâu là chỗ khác biệt. Một vài trao đổi. Chúc sức khỏe
    !
    Cảm ơn các bạn.

  16. Đôi điều về nhận định thơ Nguyễn Quang Thiều:
    Nhưng nếu cách tân mà thơ lại không tồn tại được với năm tháng cũng như không trường cửu trong nền văn học… thì thử hỏi chân dung các nhà thơ kết cục sẽ là loại gì đây?
    vấn đề không phải là cách tân hay là không cách tân? trường phái này hay là trường phái khác? Nếu thơ đạt độ viên mãn cả nội dung (tức là ý nghĩa) & hình thức nghệ thuật của loại thơ đó – Là thơ ấy tồn tại! Tất nhiên đạt tầm vóc (tức là sự hoàn bích) sẽ là thơ hay! Tôi có nhớ trên một trang báo, ông Hữu Thỉnh đã viết đại ý: Không có thơ mới hay cũ mà chỉ có thơ hay hay là không hay!?
    Tôi không phản bác lại cách tân của Nguyễn Quang Thiều… nhưng NQT vẫn chưa đủ khả năng tức là tài năng cả cảm thụ lẫn sáng tạo về một tình thơ viên mãn & hoàn bích nên thơ anh vẫn chỉ là những tình thơ trôi nổi mênh mang & không có khả năng tồn tại.
    Hay nhất vẫn là tập thơ “sự mất ngủ của lửa” và trong đó bài đạt cao nhất vẫn là “Người đàn bà gánh nước sông”… – Tuy nhiên kể cả bài “Người đàn bà gánh nước sông” hay nhất của anh – Cũng chưa thật sự viên mãn (về mặt ý tưởng – tức là ý nghĩa bài thơ) nên vẫn chưa đạt được là một bài thơ hay để tồn tại với thi đàn – Bài thơ còn thiếu một téo thôi thì sẽ đạt độ vĩnh cửu – nhưng thiếu cái téo đó bài thơ cũng sẽ….cát bụi NQT ạ!
    Cái “téo đó” chính là giới hạn giữa vực thẳm với trời cao – giữa vĩ đại & bình thường đó! Tôi vẫn thấy thấm thía những bài thơ anh viết về mẹ theo thơ truyền thống ngày xưa. Nói như thế không phải là khuyên NQT đừng cách tân – Mà là: Bên cạnh sự cách tân Thiều đừng dại dột bỏ lối thơ truyền thống đó – kẻo chẳng may thời gian, nhất là khi có tuổi rồi, đầu cũng muối mắm rồi… xôi hỏng bỏng không thì mất cả đời thơ xa xót
    lắm đấy! Mấy lời cổ hủ… của Phạm Ngọc Thái đã cổ này, xin cứ coi là trao đổi với nhau cho vui – Thái già rồi… cứ thơ cảm thấy thích, thấy thú mà làm – chả biết có phải là cách tân hay không? Chỉ có một điều em chẳng dại gì đem đời thơ ca của mình để quấy cháo lòng tiết canh…
    Thân ái chào Thiều – sắp tới sẽ tặng Thiều một tập thơ dầy trên 300 bài (đang in) để minh hoạ cho điều Phạm Ngọc Thái nói hôm nay!
    Thân.

  17. PNT nói đúng. Cần phải có thơ hay.
    Nhưng hỏi thế nào là hay? Mà nếu cứ làm thơ như kiểu cũ mãi thì sao đây?
    Thơ Đường luật, lục bát, 8 chữ… chán chết! Ta học thơ Tự do thì người Việt mới có thơ Tự do, ta học thơ siêu thưc, thơ Tượng trưng… Cách tân là vậy.
    Tôi thấy nhà thơ Inrasara rất CÔNG BẰNG.
    Thân

  18. Anh Inrasara có được vị thế tốt để anh nhìn tương đối công bằng, là đúng. Anh là người Chăm, không dính dáng gì vào đấu đá nội bộ nhà thơ “Kinh” với nhau. Anh cũng không mắc nợ về đường chiến tranh cho nên anh cũng có thể ở giữa mà nhìn. Mặc dầu anh là Phó chủ tịch Hội đồng thơ, nhưng tôi thấy anh sẵn sàng đứng ra ngoài (tôi nhớ anh quyết bỏ phiếu trắng).
    Nhiều người cũng thấy như anh Inrasara, nhưng họ không thể nói, vì há miệng mắc quai, họ sợ bị này nọ nhiều chuyện linh tinh. Hay họ không nói cho hay như anh Inrasara.
    Như vậy cũng là bản lĩnh rồi.
    Dĩ nhiên HỘI NHÀ VĂN có xét đến ý kiến anh hay không thì không ai biết được. Nhưng tôi thấy đây là ý kiến rất trọng lượng. Hiếm lắm đọc được bài viết như thế này. Nhiều người cũng đã thấy như tôi thấy. Chuyện đưa ra ánh sáng là thế.

  19. Bài viết của Inrasara thật xứng tầm. Sâu sắc, máu lửa, chỉ thật đúng bản chất vấn đề. Phản hồi của Hoàng Hưng thật xứng tầm. Nhiều ý kiến trao đổi hay, thú vị, gợi ra nhiều vấn đề về hoàn cảnh xã hội, cạm bẫy quan phương, những yếu tố ngoài thơ nhưng rất có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của thơ. Chỉ tiếc, ý kiến thảo luận của Lê Khánh Mai hơi bị vô duyên.

  20. Tôi đọc kỹ bài này rồi, bài viết chỉ đạt KHÁ, sao các vị cứ khen. Có lẽ vì nó là đề tài nóng. Inrasara viết nhiều bài khác xuất sắc hơn nhiều lắm.
    Bài này thể hiện được: thẳng thắn, công bằng và đang là thời sự nóng.
    Đây là cây viết độc đáo.

  21. Bac Hoang Hung noi dung nhung khong triet de. Moi nha phe binh co mot mang rieng. Nha phe binh mien Bac duong nhien “Thao” tho mien Bac hon, tham chi co nguoi khong biet gi ve tho mien Nam. O day, bac lai danh vao van de “phan biet chung toc”. Toi khong dong y.

  22. Trần Hoài Nam nói “phân biệt chủng tộc”, lạ quá. Nhà thơ Hoàng Hưng có nói như vậy đâu?
    Nhà thơ HH cũng không có ý phân biệt Bắc Nam nữa, mà bác ấy chỉ nói là nếu muốn xét “cách tân” cho công bằng thì nhà phê bình phải đọc hết, Bắc và Nam, trong và ngoài nước, kẻo bị hố.
    Thân mến

  23. ViNh than men
    Mot nguoi lam sao ma cai gi cung doc het duoc. Moi nguoi mot tang rieng, trong do co su tac dong khong nho cua “com an nuoc uong” (moi truong song, loi song moi vung mien, dan toc..) ma tham chi co doc het thi nguoi ta cung chi noi ve cai nguoi ta biet ro nhat, manh nhat thoi chu. Nhung nguoi co kha nang bao quat duoc nhu Inrasara khong nhieu dau ban a. Minh co noi bac Hoang Hung sai dau, chi la khong triet de. Minh cung co mong muon doc tu Nam chi bac, trong nuoc ngoai nuoc nhung doc mot minh Inrasara da khong het roi. Cam on ban gop y.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *