Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại 14. Lê Vĩnh Tài

CÁC KHUÔN MẶT MỚI
nghiên cứu – phê bình – tuyển thơ
là tập 4 trong bộ tứ THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
gồm 12 nhà thơ, mỗi nhà được dành một bài giới thiệu và tuyển 7-10 bài thơ.
Sẽ tuần tự có mặt trên inrasara.com, sau cùng là bài tổng luận:
“Thơ Việt sau hậu hiện đại & Phê bình mở”.
CÁC KHUÔN MẶT MỚI sẽ được tiếp tục phần 2.
(Chú ý: mỗi khuôn mặt được tiếp cận và thể hiện mỗi cách khác nhau)

*
Sinh 1966 tại TP Ban Mê Thuột.
Tác phẩm:
Hoài niệm chiều mưa, NXB Thanh Niên 1991.
Hạt thóc và Hoa dại (in chung với Uông Ngọc Dậu), 1993.
Lục bát Phượng yêu (in chung với Phạm Doanh), 1994.
Và nỗi nhớ đã bắt đầu với gió, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2004.
Vỡ ra mưa ấm, trường ca, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2005.
Liên tưởng, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2006, Giải thưởng của Liên hiệp các hội VHNT VN 2007.
Đêm & những khúc rời của Vũ, NXB Hội Nhà văn, 2008.
Thơ hỏi thơ, NXB Thanh Niên, 2008.

Góp mặt trong:
Thơ trẻ Việt Nam 1994-1998.
Tuyển 20 năm thơ Sông Hương, 2003.
Tuyển 50 năm thơ Văn nghệ Quân đội.
Thơ Việt Nam, Tìm tòi và cách tân 1975-2005, NXB Hội Nhà văn, 2007.
Huy chương vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, 2001.

*
Giáp mặt đêm, Lê Vĩnh Tài lần nữa, tập nói

*
Tuổi hai mươi, chàng trai vùng sâu vùng xa ấy xuống núi về thành mặc áo sinh viên, ngồi ngay ngắn giảng đường, nghe như nuốt lời các ngài giáo sư, tiến sĩ. Chàng biết yêu đương, biết nhớ nhung xa vắng và tập tành làm thơ. Và nỗi nhớ lại bắt đầu với gió…
Riết rồi chàng trai cũng ra trường, nghĩa là đã thành người lớn. Oách lắm! Nhưng vừa ló mặt vào đời, đứa con được dưỡng dục bởi rừng núi Tây Nguyên đụng ngay thực tế lù lù. Độ ấy, xứ sở rừng vàng [biển bạc] coi như đã hoàn thành sự nghiệp làm sạch rừng.

Văn hóa Tây Nguyên hình thành và phát triển qua/ với/ bởi rừng. Nó tồn tại vì rừng hay tiêu vong cũng bởi rừng. Rừng với bao nhiêu tên đất, tên sông của riêng Tây Nguyên: Krông Knô”, “ Krông Ana”, “Sêrêpôc”, “EaKao”, “Ea H’leo”, “plây M’Drak”, “núi lửa Cư’Mgar”, “badan”, “chưyangsin”, “buôn N’êng dịu dàng gội tóc”,… Rừng với thiên nhiên và cuộc sống đặc trưng: “hoa cà phê trắng”, “chim K’tía”, “chim Grứ”, “chim Phí”, “những con suối lang thang trong núi”, “bước chân múa quanh ché rượu”, “chiếc cầu thang nhà dài”, “điệu khan buồn”, “ché rượu cồng chiêng lãng mạn”,“tiếng cồng âm u”, cả câu hát giao duyên đầy thách thức: “em dám đổi cả đàn trâu trong chuồng cưới anh không?”. Rừng muôn mặt, muôn tâm trạng với những biến thiên khôn lường. Nỗi bao dong dưỡng dục vô bến bờ và sức tàn phá giận dữ cũng khôn lường.

rừng thành chật chội bước chân của người…
rừng bỏ chúng ta đi

Khi rừng bỏ đi thì cơn mưa bỏ đi, mùa màng bội thu thưa thớt đi, văn hóa tàn héo và con người rời bỏ plây mà đi. Chàng thi sĩ đất Tây Nguyên thảng thốt trước biến mất gần như là đột ngột của rừng:

đỉnh núi không còn rừng nhô ra đỉnh vú…
trên rơm rạ đời ta rừng từ giã cõi đời

“Rừng đã thành huyền sử”, “rừng đã thành tĩnh vật”. Thế hệ mất rừng ra đời, một/ một vài thế hệ lạc lõng. Họ ngoảnh mặt chối bỏ tất cả. Buồn!

nỗi buồn tro than nỗi buồn của lửa
nỗi buồn di dân chật cả giấc mơ

Một lời oán trách gió bay hay tiếng nói truy cứu trách nhiệm? Anh, tôi, họ và cả “Quê hương còn món nợ với trò chơi vô tăm tích” này. Nhưng dẫu sao cũng phải sống, dù sinh hoạt thường nhật hôm nay có cơ khổ tới đâu: “nước ở trên gùi chứ không ở dưới sông/ lấy được nước mồ hôi nhiều hơn nước”, chàng trai ấy vẫn không tuyệt vọng. Lê Vĩnh Tài đã biết cho ĐamSan-hiện đại – “chàng ĐamSan không bao giờ đêm tối” chôn vùi huyền thoại cũ, tạo dựng huyền thoại mới. Từ huyền thoại mới này, một thành phố Banmê mới sẽ ra đời:

niềm vui Banmê chênh vênh mõm đá
thành phố dịu dàng nỗi đau ngược gió
bay lên
.
(Vỡ ra mưa ấm, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2005)

Nghĩa là vẫn tràn niềm tin vào tương lai tươi sáng!

Tưởng Lê Vĩnh Tài mãi hát ca bài ca hi vọng như thế, nhưng không. Văn hóa internet ra đời đạp đổ mọi vách ngăn trung tâm/ ngoại vi, thành thị/ thôn quê, miền núi/ đồng bằng,… Khi thi sĩ chịu mở mắt nhìn ra bên ngoài. Hơn nữa, khi thơ “không còn đòi nói dối/ không còn nói câu này quên mất câu kia/ không còn những lời hứa nước bọt”, thi sĩ “bắt đầu tập nói”, tập nói lại. Tài tập nói từ thuở hậu lãng mạn: Và nỗi nhớ lại bắt đầu với gió sang hậu hiện thực xã hội chủ nghĩa: Vỡ ra mưa ấm, đến hiện đại: Liên tưởng, và ít nhiều cả hơi hướng hậu hiện đại nữa, nơi Đêm và những khúc rời của Vũ và nhất là Thơ hỏi thơ.
Vẫn giọng tự sự trữ tình, lối kể của thời Vỡ ra mưa ấm, nhưng kể ở “Rồi sớm mai im lặng sương mù” không còn tuân thủ thứ lớp trật tự thời gian hay sự kiện mà, qua chộp bắt sự thể được kí ức lưu giữ và chắt lọc, với kết nối những gợi mở của con âm và ý nghĩa của từ, làm bằng các chú thích khiến câu thơ lởm chởm ổ gà. Tên và buổi chiều thì thơ mộng, nhưng đó chỉ là cái cớ cho chương hồi trường ca bện níu nhau, chồng lắp nội dung và hình thức, phá lằn ranh câu chuyện và người nghe chuyện. Qua đó, thơ từ bỏ sự dàn trải nỗi lòng, tính thời sự được đẩy lên cao hơn. Câu hỏi được đặt ra quyết liệt, nhịp thơ chông chênh gẫy gập hơn.

tại sao không liên tưởng
hạnh phúc dửng dưng nỗi đau phá
giá oằn vai người nuôi cá basa
mắt người nuôi gà
nỗi kinh hoàng hố chôn dịch cúm
dường như chiều nay
chúng ta quên mất cuộc đời nhiều cánh cửa
cùng đóng lại ước mơ
với một ly cà phê Highland bốn mươi ngàn
khuyến mãi máy lạnh
quên mất ở Tây Nguyên bảy năm rồi cà phê bốn ngàn một ký
khuyến mãi mồ hôi

(Đêm và những khúc rời của Vũ, NXB Hội Nhà văn, 2008)

Đó là loại thơ trữ tình thế sự. Cả khi riêng tư nhất: tình bạn, thế sự cứ trồi lên. Tâm sự bằng hữu chỉ để nghe “thời cuộc lắp bắp”. Bài thơ dài này, thực chất là một kĩ thuật tạo thêm nhân vật thứ hai để trữ tình của tác giả về thời cuộc “qua những lỗ thủng trên mặt đường PMU 18” không bị rơi vào độc thoại kêu cứu sáo mòn. Các ngôi thứ hoán đổi nhau phát ngôn, là cách để thơ nói được nhiều hơn. Tình yêu trong tình bạn, cũng là một ý đồ làm đa thanh giọng thơ. Rốt lại thơ thả rơi cái kết còn một chữ, như một tiếng nấc nghẹn cuối cùng:

Vũ yêu được nhiều không
Vũ yêu được nhiều
Vũ yêu được
Vũ yêu

(Đêm và những khúc rời của Vũ, NXB Hội Nhà văn, 2008)

Sự thất thố của mất mát, lớn hay nhỏ, chung và riêng được dàn bày phơi mở đã gây một xúc động đặc biệt. Chới với giữa khoảng cách sự thể và cảm giác: “từ tôi đến mắt tôi/ xa quá không sao khóc được”, trong hẫng hụt giữa người làm thơ và ngôn ngữ: “từ tôi đến miệng tôi/ xa quá không sao kêu cứu được”, thi sĩ, để làm gì? Câu hỏi đi xuyên suốt tập thơ, lãng đãng hay đột ngột trồi lên như loài mụn nhọt ác tính đau nhói: “Những câu thơ như gió rã rời”.

thơ mang khuôn mặt buồn của người
nông dân bỏ quê ra phố
… thơ ngất xỉu khi ngang qua cây cầu sập
còng lưng chảy máu mẹ nghèo

(Đêm và những khúc rời của Vũ, NXB Hội Nhà văn, 2008)

Khuôn mặt nghèo và buồn của những “đêm”. Đêm tiếp nối đêm. Giáp mặt đêm, thi sĩ đặt câu hỏi về/ với chúng. Đó là những câu hỏi của và cho hôm nay trong đêm và những khúc rời của… Tài. Trách nhiệm công dân và ý hướng tự do của thi sĩ, thế sự và tự sự trữ tình, anh rất nhuyễn trong “sắp đặt” chúng. “Một tiếng” đột ngột chen ngang giữa Đêm và những khúc rời của Vũ, chẳng hạn. Không cao tay, nó trở thành một gượng gạo như chơi. Nhưng không, Lê Vĩnh Tài đã tạo cho nó hiệu quả thơ khá bất ngờ. Hoặc lắm lúc anh sắp ngược lại cả một đoạn thơ, chỉ để làm nổi trội một sự thể sáo nhàm đến thê thảm:

nhưng câu thơ biết sợ lâu rồi
nhưng lâu rồi câu thơ biết sợ
nhưng rồi lâu câu sợ biết thơ
…(**)
(Đêm và những khúc rời của Vũ, NXB Hội Nhà văn, 2008)

Động cập đến thời sự nóng, Tài đã không biết sợ. Đúng hơn – đã hết biết sợ.

Rồi rốt cùng, qua thơ hỏi thơ, Lê Vĩnh Tài còn đùa nghịch với thơ – thơ bạn bè và thơ mình, châm chọc với chính cái câu sợ biết thơ của mình. Anh bỡn cợt thơ cụ thể, thơ trình diễn, thơ hậu hiện đại, thơ tục, thơ biết sợ, thơ vô sinh, thơ dựa hơi, thơ chạy sô, thơ siêu hình, thơ tắc tị, thơ hú họa, thơ hưu trí, thơ thương nhớ lũy tre làng. Bỡn cợt với mấy nỗi phê bình thơ, phê bình tung hô, phê bình chào hàng, phê bình du kích hay chỉ điểm, phê bình vuốt đuối hay mạt sát thơ,…
Bắt đầu bằng “có một bài thơ…”, thơ đi suốt 50 thơ hỏi thơ, như thể cuộc ma-ra-tông tự thức, ít nhiều chua chát nhưng không thiếu tinh nghịch.

thơ cũng leo lên sân khấu => xé giấy & trình diễn
ảo giác, nhảy múa, mở nhạc… và lên cơn đấm luôn vào mặt bạn (diễn)
và lần này thơ khóc hu hu
sau đó hắn hiền, nghe nói bài thơ đang đi tu

(“Thơ 3”, Thơ hỏi thơ, NXB Thanh Niên, 2008)

Trong khi ấy, ở nơi xa kia:

Bài thơ nghe kể:
“người nông dân 1: cống hiến nhiều nhất
người nông dân 2: hy sinh lớn nhất
người nông dân 3: hưởng thụ ít nhất
người nông dân 4: được giúp đỡ ít nhất
người nông dân 5: đè nén thảm nhất
người nông dân 6: bị tước đoạt nặng nề nhất
người nông dân 7: cam chịu lâu nhất
người nông dân 8, (đến đây bài thơ mệt quá, xin thôi nghe nhưng không được): là người tha thứ cao cả nhất…”

nghe xong bài thơ càng stress thêm. Vì thế sau đó bài thơ cũng ít về làng chơi, mỗi lần muốn xả stress bài thơ đi mát xa đâu đó ở gần nhà, xong xoa tí dầu Con Ó xanh rồi về với vợ
(“Thơ 32”, Thơ hỏi thơ, NXB Thanh Niên, 2008))

Như vậy, thế nào rồi chàng trai đất Tây Nguyên ấy cũng trở lại với cội nguồn nuôi lớn mình. Nơi bạt ngàn ngọn núi trọc đứng sừng sững làm chứng nhân của tội lỗi. Nơi những con người vô danh đang sống, câm lặng, đau khổ và chịu đựng.
Thói đời, nhà thơ tỉnh lẻ hay vùng sâu miền cao, khi an tọa góc nhỏ chiếu văn chương, ngồi rung đùi và phán trong thế giới hẹp của mình. Hoặc, sau mấy chuyến “đi tỉnh về”, vội làm người phố chợ, mất hết “bản sắc”. Lê Vĩnh Tài – không! Anh mang tiếng nói ngoại vi công phá vào trung tâm, không phải để chính mình trở thành trung tâm, mà là giải trung tâm. Trong thơ, cả trong thái độ thơ(*).

Sài Gòn, 17-1-2009.
___________________________

(*) Hai tập thơ Đêm và những khúc rời của Vũ và thơ hỏi thơ xuất hiện lần đầu trên mạng như là một tác phẩm.

One thought on “Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại 14. Lê Vĩnh Tài

  1. Pingback: Lê Vĩnh Tài, Nhà Thơ Phố Núi Và Trường Ca Vỡ Ra Mưa Ấm « Đọt Chuối Non

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *