Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố ‘nữ’

THƠ NỮ TRONG HÀNH TRÌNH CẮT ĐUÔI HẬU TỐ “NỮ”

Trong cuốn Le deuxième Sexe, ngay lần xuất bản đầu tiên vào năm 1949, phát biểu của Simone de Beauvoir: “Người ta không sinh ra là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ / On ne nait pas femme, on le devient” vang lên như một thách đố. Dẫu câu văn được những kẻ đấu tranh và không đấu tranh cho nữ quyền trích đi dẫn lại đến sáo nhàm, nhưng đến hôm nay nó vẫn còn nguyên giá trị.
Từ xuất phát điểm đó, gần hai thập kỉ sau, Robert Stoller dấn thêm một bước mới: phân định rạch ròi hai khái niệm giống và giới tính (Sex and Gender: On the Development of Masculinity and Femininity, 1968); hay nói như Dr.Harry Benjamin: Giống (sexe) là điều ta thấy, giới tính (genre) là điều ta cảm thấy (Le sexe, c’est ce que l’on voit, le genre, c’est ce que l’on ressent). Giống là của trời cho: mông to/nhỏ, vú nở/lép, của quý lõm vào/thò ra, trên người ít/nhiều lông,…gắn liền với các đặc điểm sinh lí. Còn giới tính, nó bị quy định triền phược bởi truyền thống văn hóa, tập tục, giáo dục, tôn giáo, chính trị,…nghĩa là toàn bộ những gì ta cảm thấy qua cách nhìn nhận của một cá nhân hay tập thể về tính cách nữ/nam. Giống không thể thay đổi, còn giới tính thì có thể. Cái gì có thể thay đổi được thì sẽ thay đổi được. Dĩ nhiên cái không thể này cũng cần trừ ra trường hợp cá biệt như siêu sao nhạc Pop Michael Jackson tẩy trắng da hay những kẻ giải phẫu quyết thay đổi giới tính. Chính tại điểm nhấn này, các nhà đấu tranh cho nữ quyền thế hệ thứ hai lập thuyết và đấu tranh.
Sang thập niên 80, ảnh hưởng chủ nghĩa hậu hiện đại, thế hệ nữ quyền luận thứ ba đẩy tư tưởng nữ quyền tiến thêm một bước quan trọng: vấn đề giới tính thực chất là vấn đề thể hiện, “một hệ thống biểu trưng hay hệ thống ý nghĩa nối liền các giống với những nội dung văn hoá tương ứng với những giá trị và đẳng cấp xã hội tương ứng” (Nguyễn Hưng Quốc). Và cả vấn đề ngôn ngữ nữa; bởi ngôn ngữ hôm nay chỉ là thứ ngôn ngữ do nam giới áp đặt trong đó hầu hết những gì liên quan đến nữ giới đành phải nhận phận hậu tố tòng thuộc hay như một phái sinh đầy thứ yếu.

Các nhà đấu tranh cho sự bình đẳng giới không chấp nhận đóng vai tòng thuộc đó. Không phải đảo ngược hay nổi dậy hô hào lật đổ: phụ nữ quan trọng hơn đàn ông, nữ quyền thay thế nam quyền, mẫu hệ đảo chính phụ hệ,…mà là, đạp đổ bức vách ngăn vô hình phi lí đầy tệ hại tồn tại suốt mấy ngàn năm lịch sử nhân loại. Bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong đó sáng tác và phê bình văn chương có vai trò nhất định.
Trên thế giới, nhất là trong các nước phương Tây không bị ảnh hưởng bởi tư tưởng Khổng Mạnh, giới nữ đã khẳng định vai trò và tư thế mình trong xã hội dân chủ: từ nguyên thủ quốc gia cho đến nhà hoạt động hòa bình, từ nhà khoa học cho đến tác gia văn chương, …đâu đâu cũng có những khuôn mặt nổi bật. Không phải do cơ cấu mà ở ý thức tự do, bình đẳng và nỗ lực vận động tự thân: Bà Mahatma Gandhi, Marie Curie hay Szymborska,… Họ có đó, không như vài hiện tượng hiếm hoi nữa mà là một cái gì đã trở thành phổ quát.
Trong trào lưu mang tính toàn cầu đó, các nhà văn nữ Việt Nam đứng ở đâu?
Ngược dòng lịch sử, chúng ta có được tấm gương sáng: Hồ Xuân Hương. Trong xã hội bị thống ngự bởi giống đực, viết thơ thôi cũng bị coi là hành vi xúc xiểm rồi, nói chi dùng văn chương để kêu ca về thân phận hèn kém của phụ nữ, hơn nữa – để phản kháng sự đè ép đầy bất công mà chế độ phụ hệ áp đặt lên phía giới chân yếu tay mềm.

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết đường nào nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong
.
Phản kháng ngang tàng oanh liệt thế, bà chịu nhận cái nhìn dè bỉu hay bị phê phán gay gắt của dư luận là khó tránh khỏi; thế nhưng đó là thứ tư duy mang ở tự thân khả tính cách mạng. Nên, với thế giới hôm nay, thơ của nữ sĩ họ Hồ được đánh giá cao hơn cả Nguyễn Du – nhất là về mặt tư tưởng cách mạng, không phải không lí do của nó. Nó vừa chuẩn bị bên cạnh, như báo hiệu một trào lưu nữ quyền trong văn chương Việt một ngày không xa.

Ở miền Nam trước 1975, những Lệ Hằng, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Túy Hồng, … đã khẳng định được mình với tư cách nhà văn đồng thời qua quan điểm về tính dục phi-truyền thống, họ đã nói lên được sự bất mãn tính dục của chị em trong xã hội bị áp chế bởi thứ chủ nghĩa duy dương vật (phallocentrism). Sau đó, một Lê Thị Huệ viết để chống lại cơ chế xã hội được tạo dựng bởi chế độ đực tính qua hàng loạt kí sự hoặc, một Phạm Thị Hoài phê phán kịch liệt “tư cách trí thức [đàn ông] Việt Nam” trong suốt quá trình lịch sử. Là những vùng vẫy đáng trân trọng.
Còn hôm nay thì sao? Nhà thơ nữ Việt giai đoạn qua đứng ở đâu trong hành lịch văn chương và xã hội đầy biến động?

1. Từ khủng hoảng
Các bạn thơ nữ thời đại toàn cầu hóa quyết tháo tung cương ngựa non mà kỉ cương cũ [toan] buộc ràng chúng, cho chúng mặc sức tung vó, hí vang. Không còn kiêng nể gì nữa, sex hay không sex, bản năng hay không bản năng, truyền thống với định kiến xã hội: bất chấp tất! Họ thể hiện mình, phơi mở và phô bày cái Tôi chủ quan, không che giấu. Không cần qua trung gian ẩn dụ hay nhờ cậy sự đánh tráo của ngôn ngữ để gợi mà, trực tiếp, đẩy tới, nâng cao, phóng đại. Từ tâm tình, thái độ hay cả hành cử của thân xác trong sinh hoạt dục tính. Tất cả đều được phép, giấy phép họ tự ban cho mình. Ngay cách xuất hiện của họ cũng đúng a-la-mốt của cư dân mạng: họ chọn Evan.vnexpress.net hay Tienve.org để kí sinh thơ.
Mươi, mười năm trước thôi, đàn chị Phạm Thị Ngọc Liên dẫu có “giang tay giữa trời mà hét” cũng biết dừng lại ở đường biên tự vạch: “Tôi đi giữa sóng như loài ngư nữ / Lời thở than trôi về phía sau / Mặt trời trên tóc tôi là nụ hôn của chàng / Lời chúc ngủ ngon mỗi tối / Tôi bồng bềnh trong mơ”.
Vẫn còn hiền lành quá, hôm nay – Trần Lê Sơn Ý:

Nào thức dậy đi, hỡi những tháng ngày cô quạnh nhất
Thức dậy đi hỡi chú ngựa non của đồng ngực trẻ
Thức dậy và tung bờm cất vó
Phóng như điên
Chỉ cơn điên mới cứu khỏi nỗi sợ hãi
Hèn nhát
Trước khi băng qua bờ vực
Chỉ cơn điên mới vượt khỏi nỗi đau…
Thức dậy, dẫm chân và lắc đầu kiêu hãnh
Trước những yên cương rực rỡ sắc màu
Thức dậy để đón sương mai
Đón mặt trời mỗi sớm
Thức dậy đi ơi chú ngựa
Đã ngủ sâu trong đáy tim nhiều năm tháng
.(1)
Cả vài giọng thơ nữ ở phía Bắc, Vi Thùy Linh chẳng hạn, được/bị cho là bạo.
Bởi vì trong đêm
Em bùng lên nỗi nhớ, khát khao và cả những điều thầm kín nhất
Bởi vì trong đêm, em là em toàn vẹn nhất
Anh hiểu không?
Cái lạnh ngấm dần, em tự ôm em
Em tự xát thương vết thương đau đang rỉ ra
nơi cắt rốn cô đơn bằng những giọt lòng
và lần cởi từng chiếc cúc …
(2)

Vi Thùy Linh mới “Khỏa thân trong chăn / Thèm chồng” thôi mà đã bị dè bỉu; còn những “lần cởi từng chiếc cúc”, …nữa, bạo gì đâu! Phương Lan đã khác, khác lắm:

Rướn cong mùa chín mọng trong đêm
Chờ một linh tín để hân hoan giờ khai mở,
Dưới em là rầm rì cỏ mềm
Và những phôi mầm phập phồng cố nén cơn phấn khích
trong viễn tượng đồng loạt đội lên

Và rồi êm lịm
hơi thở phủ xuống em
Giấc mơ khoan thai bay đến
khe rãnh róc rách khơi chảy
Cơn gió hoang phiêu mát lạnh trườn ngược lên đỉnh đồi…(3)

Cả lối đặt tên bài thơ cũng khác. Không còn vụ: “Giấc mơ của lưỡi”, “Thất vọng tạm thời”, “Hè lỗi hẹn”, “Lãng mạn giải lao”,… (Phan Huyền Thư) hay: “Anh còn cho em”, “Em – bí mật”, “Nói với anh”, “Mùa anh”, “Thung lũng anh và em”,… (Vi Thùy Linh) nữa. Phương Lan bộc trực hơn, nếu không nói là đanh đá đầy khiêu khích: “Lỗ rỗng”, “Mùa căng”, “Đào thoát”, “Nẻ”, “Lên cao”, “Chờ mưa”, “Vọng kinh”,…
Cùng thế hệ Tú Trinh, Ngô Thị Hạnh, Nhật Quỳnh… nhưng Thanh Xuân, Lynh Bacardi, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Khương Hà Bùi,… hết còn nền nếp khép mình trong khuôn phép, họ “quậy” hơn, phá phách táo tợn hơn. Để có mặt.
Nếu lãng mạn-trữ tình của thế hệ Hậu-đổi mới còn muốn giữ lại cọng hành an toàn, những buông thả mang tính bản năng còn cuộn mình trong kén ý định:

Em sẵn sàng chết vì anh nhưng không phải là cái chết đau đớn
Nếu anh không của em
Em sẽ vắt mình đến giọt sống cuối cùng
làm nghiêng ngã mọi ổn định
.(2)
Thì lãng mạn của cư dân mạng đã khác hẳn. Nó tung hê tất, dám nói tất! Đây là thế hệ say đắm yêu, nhưng say đắm với con mắt mở lớn đầy ý thức, từ/qua ý thức đòi hỏi bình đẳng giới tuyệt đối.
“Tôi nghĩ thái độ hậu hiện đại cũng tương tự như thái độ của một người đàn ông yêu một phụ nữ học thức cao; anh ta biết rằng anh không thể nói với cô kiểu “anh yêu em mê mệt”, bởi vì anh thừa hiểu là cô ta biết (và cô ấy cũng biết là anh biết) những chữ ấy đã được Barbara Cartland viết ra rồi. Tuy nhiên, vẫn còn có cách khác. Anh có thể nói thế này: “Như Barbara Cartland đã từng nói, anh yêu em mê mệt.” Như thế, vừa tránh được sự ngây thơ vờ vĩnh vừa có thể nói được rõ ràng những gì vốn không còn có thể được nói một cách ngây thơ, đồng thời, anh lại vừa nói lên được những gì anh muốn nói với người phụ nữ: anh yêu cô, nhưng anh yêu cô trong một thời đại đã mất sự ngây thơ”(4)

Nguyệt Phạm cũng yêu, cũng say, nhưng đã khác nhiều. Song hành với “chết cóng vì sự nổi loạn nửa mùa của những cơn mê”.(5) là cái tỉnh táo của ý thức để nhận rõ “đôi mắt giấy” của người yêu, nhiều lần(6). Khương Hà Bùi nữa, cũng không chịu thua kém:

Xin anh giữ chặt vai em
cùng quay những vòng xoay chóng mặt
Thảo nguyên rỉ máu từ những hố sâu rền rĩ đòi trở lại là hoang mạc
Quằn quại nỗi đau tìm về khởi thủy
Một vòng xoay
Hai vòng xoay
Vũ trụ sinh sôi từ những vòng xoay đơn giản nhất
Từ xưa và rất xưa…
Hỡi cơn gió mấy ngàn năm vọng tưởng sóng cồn
Xin gài vào đêm những giấc mơ tình yêu nồng nàn môi ngọt
Em và anh
Say đắm tìm, say đắm yêu, say đắm tin
Say đắm điệu múa thảo nguyên mộng mị đường về
(7)
Từ “em thuộc về anh” hay “anh của em “ đến “em và anh” là cả một vực thẳm ý thức! Và, trong lúc lối quan sát của Phan Huyền Thư – dẫu tinh tế, một tinh tế không thiếu cái cười tinh nghịch – vẫn còn chịu khuôn định bởi suy nghĩ đơn tuyến:

Tôi đi
tiếng còi hú dẹp đường
xe đi họp lao như tia chớp
để lại đàng sau phố xá nườm nượp
người người chẳng hiểu mình sẽ về đâu

Tôi đi
những thằng bé lau nhau
chạy long đường bán vé số
đánh giày, tử vi và “kết quả”
thành phố của tôi
mọi người sống và biết kết quả từng ngày…(8)
Thì cuộc sống đô thị dưới mắt Thanh Xuân đã ngổn ngang, bề bộn với những chuyển động đa chiều khó nắm bắt:

… Ngày tân cảng cuốn hút dòng người vào vòng xoáy trách nhiệm
Con thoi chính mình và mai một những đam mê
Đôi bàn tay chạm vào nhau, ngổn ngang vô số hoài nghi có thật
Bí mật có phanh phui?
Rồi tự phỉ báng vào sự hèn nhát vô nghĩa

Trưa tân cảng mang con người vào khói bụi
Vào sự thiếu kiềm chế của hai-mươi-tư giờ nhân bản
Khẽ khàng quay lưng như sợ tâm hồn vỡ tung
Chẳng muộn màng cho những khát khao
Nhưng vẫn thấy kiệt sức nếu bắt đầu lại những đấu tranh thần thánh(9)

*
Thanh Xuân: “Tôi đi bằng những bức họa ở EL rời khỏi bầy đàn âm thầm như cơn bão” (“Bão cấp”, Evan.vnexpress.net). Tôi thực sự thích phát biểu này, và chờ cơn bão tới. Thế nhưng, tôi cứ nơm nớp rằng không ít những bước được coi là đột phá dũng cảm của các bạn trẻ hôm nay nguy cơ dẫm lên dấu vết người đi trước, không thể nói là không hay, nhưng đã là cái hay hơi cũ rồi!(10)

Về nghệ thuật, phát ngôn chỉ là những phát ngôn, dẫu chúng táo bạo hay táo tợn đến đâu đi nữa. Đầy cảm tính, chúng ta hay nhầm lẫn lối phát ngôn ngổ ngáo hay gân guốc với sự cách tân thơ! Nhầm lẫn kéo dài gần mươi năm qua, từ thuở hiện tượng thơ trẻ xuất hiện và gây ồn ào, nỗi nhầm lẫn mãi hôm nay vẫn còn chưa có dấu hiệu ngưng lại!
Câu hỏi đặt ra: Đây là một khủng hoảng bởi ức chế xã hội hay chỉ thuần bế tắc mang tính thi pháp? Hoặc, tệ hơn: nó chỉ là một cách làm dáng, thời thượng? Bởi không ít người, mượn cớ cách tân, đã sa bước và chìm nghỉm trong cõi hỗn mang của trùng trùng lối viết mà không tự biết, hoặc biết, nhưng tự đánh lừa. Nói cách khác: không nhập cuộc chịu chơi mà bị lôi cuốn vào cuộc chơi, nên chẳng khám phá được gì. Để cuối cùng tự đánh mất mình và đánh mất luôn sự liên lạc với thế giới xung quanh.
Thế là họ lên ¬đường “đi tìm mình”. Cuộc lên đường tấp nập, nhộn nhịp. Như một tập thể lớn, vừa cố tạo lối đi riêng đồng thời rất sợ cô đơn trong cái mới của thế hệ. Không phải cái mới hôm nay không dẫm đạp lên nhau, nhiều nữa là khác! Do lười lao động nghệ thuật, cái mới rất dễ “lừa mị” người đọc rằng nó độc đáo, khi nó chỉ lo “khác cái cũ” thôi mà bỏ qua không tính tới công đoạn “khác chính nó”. Đó là sự hời hợt và đồng bộ trong cái mới [hay cái ra vẻ mới] hôm nay. Các tác giả trang bị thứ tâm lí rất kì lạ: vừa khao khát, đồng lúc vừa sợ khác các bạn đồng hành. Thế là lặp lại nhau, vô thức hay hữu thức. Rõ hơn cả, không chỉ ở ngôn ngữ thơ mà, ở chính hình ảnh và ý tưởng thơ. Hình ảnh “ngựa” hay cái nỗi “tìm mình” chẳng hạn. Ngựa từ Xuân Diệu sang Hoàng Hưng đến Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Trần Lê Sơn Ý,.. cứ thế mà ngựa!

Thức dậy đi hỡi chú ngựa non của đồng ngực trẻ
Thức dậy và tung bờm cất vó
Phóng như điên…
Thức dậy đi ơi chú ngựa
đã ngủ sâu trong đáy tim nhiều năm tháng
(11).
Mãi tận Đinh Thị Như Thúy nữa, ngựa chưa bao giờ làm vắng mặt!

Trái tim tôi là con ngựa bất kham
Sải vó dài trên đồng cỏ.
Gió ngùn ngụt gió
(12).

Rồi khi Ngựa Trời xuất hiện, ngựa đã thành một cuộc [mốt] chơi không biết đâu là cùng tận:
Em là con ngựa bất kham vừa chạy trốn vừa chạy theo những ám ảnh.…(13)

Nếu ngựa Xuân Diệu (“Và hồn tôi như ngựa trẻ không cương / Con ngựa chiến ngất ngây đường viêu viễn”) biểu hiện nỗi ngây thơ, mơ mộng đẫm chất lãng mạn; hoặc ngựa của Hoàng Hưng là ngựa cô độc đầy kiêu hãnh lạc giữa tập thể bầy (“Em là con ngựa non thon vó / Lạc giữa rừng người hoang vu”) thì ngựa của các bạn thơ nữ trẻ hôm nay nhất tề hô khẩu hiệu đòi tháo cũi sổ lồng, giải phóng mình khỏi buộc ràng phép nhà xã hội. Tất cả – một giuộc!
Ừ, thì vậy. Đó là tâm thế chung của phụ nữ thời đại. Nó đã vậy và phải vậy. Cả chuyện “đi tìm mình”, “dám là mình”, “là chính mình”,…cũng không khác nhau phân tấc.

lọt qua kẽ tay
tôi muốn nhoài người ra biển lớn
tìm mình
(14).
Tôi tìm lại mình trong những giấc mơ cong queo hình vỏ quế(15)
Em là ai mà chưa chính mình?(16)

Thời đại hôm nay không chấp nhận sự đồng bộ trong lối nghĩ/lối sống, không chịu vong thân giữa cộng đồng bầy đàn như đã. Là ý hướng tốt, đáng xoa đầu khen ngợi lăm lắm. Nhưng đó là nói chuyện đời; còn trong thơ thì khác. Tuyệt đối, khác hay là chết! Anh/chị phải nỗ lực khai phá tìm tòi thi ảnh lạ, tứ thơ mới. Hoặc, ví có xài hàng cũ, thì thái độ ứng xử với chúng phải khác, trên tinh thần khác: đùa xíu chẳng hạn; chứ tôi thấy các bạn vẫn còn nghiêm nghị căng thẳng bật máu quá xá!. Nếu không, vô hình trung các bạn rập khuôn người đi trước và, rập khuôn bạn thơ ở ngay thế hệ mình!

Vẫn còn cả khoảng trắng phía trước cho kẻ sáng tác và, cho cả các thẩm định.
Làn sóng thơ nữ trẻ Sài Gòn, tách ra từng người viết, chưa đủ định hình. Chưa tạo phong cách rõ nét, chưa báo hiệu cuộc đổi mới thơ, như chúng ta mong đợi. No problem! Bù lại, nó có đó, như một hiện tượng: nó là cuộc khủng hoảng. Chúng ta chấp nhận nó hay không, hoàn toàn không quan trọng.
Lâu nay, tâm lí cầu an ngại mạo hiểm trong sáng tác lẫn thái độ mang màu sắc gia trưởng hay xu phụ trong phê bình-nhận định thơ, góp sức không nhỏ đẩy thơ Việt rơi tõm vào cõi trung bình tai hại. Cõi trung bình, và ta yên vị. Trấn an mình và người xung quanh rằng thơ chúng ta đang chuyển động. May, thơ thế hệ trẻ hôm nay đang khủng hoảng. May hơn nữa: họ biết thế.
Đeo vào bộ mặt cực đoan đến quá khích, làn sóng thơ nữ trẻ Sài Gòn cùng với sản phẩm thơ của họ vừa làm nên một cơn gió xiết: mới, mạnh, rát và bừa bộn thổi vào không khí thơ phẳng lặng hôm nay. Bản thân nó là khủng hoảng. Nó đột ngột xuất hiện và gây sốc, cố tình lôi kéo sự chú ý của chúng ta về khủng hoảng chung của thơ Việt, một khủng hoảng cần được nhìn nhận như tín hiệu tốt lành.

2. …tới nỗ lực cắt đuôi hậu tố “nữ”
“Thật nguy hiểm cho nhà văn nào khi viết lại nghĩ về giới tính của mình”.
– Virginia Woolf.

Qua click chuột xem thơ, ta thấy lối nhìn, nghĩ, cảm và cả việc chọn cách xuất hiện của các cây viết nữ Sài Gòn đợt sóng mới đã khác, rất khác. Nhục cảm trần trụi đến bất chấp của Phương Lan, ở cấp độ khác: Lynh Barcadi, hoặc sôi nổi hồn nhiên nhưng không kém buông thả ở Khương Hà Bùi, cảm nhận cuộc yêu tinh tế mà lạnh lùng của Nguyệt Phạm hay cái nhìn sắc lạnh ném vào cuộc sống đương đại ảo/thực chồng chéo đầy bất trắc như Thanh Xuân, … là những gì chúng ta ghi nhận từ sáng tác còn chưa nhiều của các cây viết này, từ vài năm qua.
Thế nhưng, mọi phô bày chỉ mới dừng lại ở phát ngôn về/cho cái Tôi chủ quan, chưa vươn ra ngoài, ngoại trừ một Thanh Xuân, Lynh Barcadi có vươn ra nhưng chưa thoát hẳn. Nỗ lực phát ngôn mới ở “thời kì quá độ”, còn gồng mình phá vòng vây phân cách giới. Có cảm tưởng như các bạn đang mặc tấm áo chật, ướt nữa, mãi loay hoay tìm cách cởi bỏ. Vẫn còn lúng túng trong tìm lối, chưa đáo bỉ ngạn để làm cuộc tương thoại thích đáng với giới kia. Do đó, vẫn chưa thể đối thoại sòng phẳng với xã hội, như là một thực thể tự do và tự tại. Chỉ khi nào chúng ta để cho giới tính như là thế, giới tính mới hết còn là vấn đề!

Đó là những khuôn mặt đang nỗ lực phá giới.
Còn thì đại bộ phận các bạn thơ nữ chưa vượt thoát khỏi mặc cảm “nữ nhi thường tình” trong sáng tác thơ, chấp nhận và an phận. Có lẽ bởi thói quen thơ của chúng ta, thói quen bắt nguồn từ truyền thống nam quyền thống ngự lâu đời, nỗi mặc cảm thân phận mình là phái yếu, tam tòng đầy lệ thuộc. Dù thế giới hiện đại bày ra trước mắt chị em bao nhiêu ý tưởng, sự kiện lồ lộ về/của sự bình đẳng giới, và dù họ cũng nhiều lần thử vươn ra, vượt lên. Nhưng rồi đâu vẫn vào đấy, luôn chịu khép mình sắm vai phụ, rất phụ:

Người đàn bà làm thơ
Người đàn bà ngồi khóc
Người đàn bà muốn làm trẻ nhỏ
Dù sao đi nữa
bàn tay ấy trong chiêm bao
đã tan vào
nghìn điều không có thật
!(17)

Em lặng lẽ yêu
để hồi sinh người đàn bà trong em bấy lâu yên ngủ
thắp giấc mơ tìm kiếm chính mình
hát ru thầm một kiếp vùi quên
(18)

Mặc cảm liễu yếu, tòng thuộc thì rõ rồi. Nhưng theo tôi, với nhà thơ nữ Việt, điều bất khả vượt này còn cắm rễ vào miền tối sâu thẳm hơn và có thể nói, nguy hiểm hơn: tiếng Việt. Tiếng Việt với các chủ ngữ không trung tính. Vừa mở miệng xưng hô, cán cân thiên lệch nghiêng ngay về phái mạnh.
Phạm Thị Hoài đùa đại ý rằng các nhà văn viết tiếng Việt khó viết truyện trinh thám hay. Lí do đơn giản là các chủ từ tiếng Việt thiếu tính khách quan. Mới vào trang đầu, “hắn” xuất hiện thì người đọc đã biết ngay kết cục truyện thế nào rồi. “Hắn” chắc chắn phải là đồ phản diện, xấu, đáng lên án. Chứ không lương thiện, anh hùng như nhân vật “anh”, “ông ấy” được! Thì còn kịch tính với nút thắt đâu để mà trinh với thám?

Trở lại với thơ, thói quen “em” từ thời Thơ Mới vẫn bám dai dẳng không dứt ra được. Chị em làm thơ đặt bút xuống là EM có mặt, to tướng, không thể bôi xóa. Hơn thế, nó lại đầy… chất thơ, mới phiền! Quan hệ máu mủ, em so bì với anh, chịu lép vế là cái chắc; quan hệ gái/trai, vợ/chồng thì càng. Núp bóng “anh”, người nữ lúc nào cũng phải “dựa vào nam giới mới có thể định nghĩa chính mình”. Các nhà thơ nữ rõ sự vụ ấy quá chứ! Xưa, đã có tấm gương sáng Hồ Xuân Hương [cứ cho tác giả này là nữ] xưng “chị” gọi em ngang tàng ngang dọc. Thời gian qua, vài nhà thơ thử làm cuộc đảo chánh nhỏ, họ sử dụng chủ từ “tôi” cách sòng phẳng trong các sáng tác của mình. Thu Nguyệt nhuần nhị “tôi” hay “ta”. Nhã Ca còn đẩy chủ từ tới cùng hơn nữa – “tui”. Hi vọng thoát khỏi kiếp tòng thuộc. Nhưng đại đa số nhà thơ nữ ta mặc cảm vẫn hoàn mặc cảm. Nói như Lê Khánh Mai, “oan nghiệt ngày thường” trở thành “oan nghiệt phận thơ”. Có nỗ lực “tìm mình” thì cứ lại thấy một mình-phụ tùng. Có gắng gượng làm cuộc bứt phá tới đâu, sáng tác phẩm của mình vẫn rơi tõm vào cõi giới tính thứ hai tệ hại:

lọt qua kẽ tay
tôi muốn nhoài người ra biển lớn
tìm mình
(19).

bạn cùng ta “bứt phá”
lang thang quên mình là đàn bà

…bao đền đài thơ sừng sững
ta gieo xác chữ ích gì

…ta ru oan nghiệt ngày thường
oan nghiệt phận thơ – tiếng kêu máu vỡ(20)

*
Vậy, làm sao thoát khỏi hạn chế của sự trói buộc của ngôn ngữ?
Thật sự không cần thiết phải chống lại thói quen thơ hay qui ước ngôn ngữ, vài nhà thơ nữ đã có cách khác, trực diện hơn và hiệu quả hơn, có lẽ. Và họ tin thế. Tự do tính dục là tâm điểm của các lí thuyết nữ quyền. Vậy tại sao chúng ta không sử dụng vũ khí sẵn có ấy vào cuộc?
Nếu không kể các nữ thi sĩ ở hải ngoại như Lê Thị Thấm Vân, Trân Sa, Miên Đáng,…thì về tiết mục này, Vi Thùy Linh và,… đáng mặt đại biểu lá cờ đầu. Say mê yêu, tự do biểu lộ và mạnh dạn viết. Mạnh bạo, quyết liệt và, sẵn sàng dung tục nếu cần. Để chống lại sự vụ lâu nay bị đè nén, áp bức, để phản kháng định kiến cũ lỗi thời, để giải tỏa những uẩn ức ngàn năm bị nhìn một chiều từ phía bên kia nơi nền “văn hóa dương vật” thống ngự. Đây là thân xác của tôi, tôi có toàn quyền trên nó, phô bày nó ra trong trang viết của tôi.
“Thì đã sao nào”? Thanh Xuân nói thế.
Và, Thanh Xuân cùng các nhà thơ trẻ thuộc làn sóng thơ nữ trẻ Sài Gòn đã đẩy nó tới đầu mút bên kia của tự do phơi bày. Nhưng dù gì thì gì, sự cách tân thơ ca cần được xem xét từ góc độ quan hệ của thơ với người đọc. Trong bầu khí quyển văn hóa Việt Nam hiện đại, mưu toan giải phóng kia đã tạo cú sốc. Cho cả người đọc nam giới lẫn nữ giới. Người ta vội vã chụp cho nó cái mũ văn chương khiêu dâm rẻ tiền hoặc ngược lại, cũng không ít người – không phải không trí thức, trong nỗi hào hứng cổ vũ cái mới – đã hối hả kêu đích thị nó biểu tượng giải phóng phụ nữ trong văn học.

Hãy thật bình tĩnh và tinh tế trong thẩm định cái mới, hoặc cái mơi mới. Làn sóng thơ nữ trẻ Sài Gòn khác hẳn Khát và Linh(21). Vi Thùy Linh có được hơi thơ khá lạ; nhờ sự hà hơi tiếp sức của thông tin đại chúng, ít nhiều nó đã thổi được làn gió hiu hắt vào khí hậu thơ đang tù đọng của chúng ta. Nhưng đòi hỏi nó gồng gánh “tinh thần nữ quyền” (feminism)(22), hay là “biểu tượng giải phóng phụ nữ trong văn học”(23) là yêu cầu quá tải. Còn quá đậm đặc ở đó khí hậu thơ Hậu-lãng mạn, tính chất nghiêm cẩn (seriousness) đến nghiêm trọng của giọng thơ, chiều hướng coi “đực tính” là trung tâm nơi miền sâu tiềm thức của ngôn ngữ thơ. Ngăn cách cả một vực thẳm với tinh thần hậu hiện đại.
Có thể nói thơ Vi Thùy Linh như thể tiếng kêu gào khản cổ đòi được yêu, được âu yếm chứ không thăng hoa tình yêu; khao khát tình dục chứ không giải phóng tình dục: “Về đi anh! / Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi anh”, “Khi em tựa cửa / Là khi em cần anh”. Ở đó lộ thiên tinh thần “nữ tính” yếu đuối đầy tòng thuộc đồng thời phơi bày một trái tim dễ tổn thương, trầy xước khi bị bỏ rơi, ruồng rẫy: “Em khóc sập trời, anh vẫn cứ đi”, “Bị đánh mất khỏi anh / Em sẽ mất em / Khi thuộc về người đàn ông khác”, “Em có thể chết vì anh”,…. Khác với “Căn phòng 2.2-âm thanh sóng” của Lê Thị Thấm Vân: “mới mẻ hơn trong cách viết, dữ dội mấy lần trong diễn tả, đồng thời nó sòng phẳng trong quan hệ hai giới: tinh nghịch, lành mạnh và sạch sẽ. Còn “khỏa mình trong chăn”, “thèm chồng”, “em đã khóc trên hai bàn tay trầy xước”…(24) Tất cả không gì hơn phơi bày cái thê thảm của một hiện tượng bị “choáng ngợp trước nghệ thuật, tự do bùng mở để đi lùi hay bị rơi vào…lãng mạn, trữ tình, hơi lỗi thời”(25). Nơi “Căn phòng…” của Lê Thị Thấm Vân, người đọc tìm thấy sức mạnh nội tại có khả năng lay chuyển truyền thống, đánh đổ thành trì định kiến về giới tính cũ kĩ.
Từ đó, để cho giới tính như là thế.
Như vậy, câu hỏi cốt tủy đặt ra là bà/chị đã xử lí nghệ thuật như thế nào, chứ không phải bà/chị đã mạnh bạo dùng đề tài nào hay, hô to cỡ nào.

*
Cùng thế hệ, chúng ta bắt gặp vài khuôn mặt “khôn ngoan” và tỉnh táo hơn. Phan Huyền Thư chẳng hạn. Thúy Hằng hay Thanh Xuân,… nữa. Bỏ rơi đề tài “nóng” sau lưng [cần thiết họ vẫn cứ dùng tới], không gồng mình dùng các hạn từ bạo phổi (mãnh liệt, tuyệt đích, trầm trọng, dữ dội, miên viễn, vĩ đại, hệ lụy, bão tố, nồng cháy,…là các từ Vi Thùy Linh khoái dùng), họ đường hoàng đi tới. Chuyển hóa tư duy thơ, từ đó, rất lặng lẽ – cắt đuôi hậu tố [hay tiền tố] “nữ” (trong cụm từ nhà thơ-nữ hay nữ-thi sĩ) đầy tai ương, bất trắc. Với sự nhậy cảm nghệ thuật, các nhà thơ này lặn sâu vào dòng sống hiện đại và bằng lao động thơ, họ bắt gặp giọng điệu của mình.
Thế hệ mới, giọng thơ cũng phải mới. Có thể ít mới ở vần hay không vần, ở thể thơ, cách xếp đặt ngôn từ; nhưng tuyệt đối phải mới ở giọng điệu-nhịp điệu. Nó là yếu tố quyết định.

Giọng thơ tình chẳng hạn. Cái sự vụ người yêu bỏ đi (chia li, biệt li, chia tay, dứt áo hay đội nón ra đi, bái bai…) thời nào và ở đâu cũng có. Nhưng giọng điệu mỗi thế hệ phải khác nhau. Ví dụ gần nhất, thời Tiền chiến, Huy Cận:

Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta con nước tràng giang lững lờ
Tiễn đưa dôi muối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau
.
(Lửa thiêng)
Qua những năm 50, 60 ta có Hoài Khanh đã từ bỏ cái nhẹ nhàng, vu vơ hay man mác, lững lờ và chầm chậm:

Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia nước cứ chảy sa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc âm u
.
Sang đến Tô Thùy Yên, ngay cả âm u, sa mù cũng không còn: tốc độ câu thơ đi nhanh hơn, dứt khoát hơn ở giọng điệu, cường độ của bỏ đi, chờ và nhớ quyết liệt hơn, sôi bỏng hơn nên có thể nói – chông chênh và nguy hiểm hơn:

Rồi một ngày em bỏ đi không cầm lại được
Tương lai ùa đến rít gào như trận cuồng phong
Ta xây xẩm giữa đất trời như cái xoáy nước
Nghe bên trong cuồn cuộn khói xe
.
Nhà thơ bị đẩy vào cái cô đơn cùng cực không nơi bấu víu. Không thể tìm giải thoát hay an ủi ở thiên nhiên (con nước tràng giang). Thiên nhiên không những vô tình (dòng sông kia, cây cỏ mọc) mà nó chống lại con người (rít gào như trận cuồng phong, xây xẩm giữa đất trời, xoáy nước), đẩy thi sĩ vào môi trường nhân tạo (cuồn cuộn khói xe) buộc hắn phải sống trong và chịu đựng nó.

Đừng nghĩ thế hệ trước yêu kém táo bạo hơn, ít say đắm hay dằn vặt kém dữ dội hơn. Ở đây chúng ta đang nói về văn chương, về giọng thơ, cách thể hiện. Bởi ngay vào cuối thế kỉ qua, giọng thơ tình “ra đi” cũng đã khác, khác rất nhiều. Hãy đọc thử Phan Huyền Thư(26):

Tôi nằm mơ một đám ma mà người chết là tôi, tôi là người đã chết.
Những người tình của tôi xếp hàng lần lượt, những người không hề biết nhau và những người đã từng định giết nhau. Họ đến xếp hàng rồi gật đầu chào mời nhau hút thuốc, đồng loạt thở dài rồi lần lượt đi vòng quanh tôi. Từng người vòng quanh, họ cam đoan không bao giờ quên tôi được. Rồi nghe chừng hơi sốt ruột trong khi xếp hàng họ hỏi nhau xem hoa hậu năm nay mới đăng quang là ai… Mua phim sex lậu ở đâu rẻ nhất

Nó lơ đễnh, vô tư gần như đến vô tình. Nhưng ai dám bảo Phan Huyền Thư không biết yêu!? Nói như Lê Đạt, thi sĩ thường nòi tình nên ít nhiều Trương Chi. Cách đây không lâu, ông đã có “Bóng chữ” hay tuyệt:

Chia xa rồi anh mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
mây mấy độ thu
Vườn thức một mùi hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu
Chiều Âu Lâu bóng chữ đọng chân cầu
.
Dẫu vậy, cái hay của Bóng chữ là hay ở chỗ khác chứ tuyệt không ở giọng điệu. Chỉ có điên mới cho đó là bài thơ dở, nhưng với giọng điệu – nó là cái hay đã cổ điển rồi. Còn của Phan Huyền Thư: khá hậu hiện đại.
Dẫu đó là loại thơ tâm tình, thứ thơ “giãi bày nỗi lòng”, thành thật phơi hồn mình ra trang giấy, như người đời thường đòi hỏi thơ phải thế. Là lối viết dễ đụng hàng. Vậy mà Phan Huyền Thư đã tìm được chất giọng rất đặc thù [tiếc rằng đoạn thơ như thế trong Nằm nghiêng không nhiều]. Riêng thơ khách quan, Thúy Hằng cũng đạt đến độ chín:

Sao không thoát xa căn phòng chật chội, khe cửa hẹp giấy má, mẩu bút chì, vôi vữa và nỗi buồn vứt lung tung
…Bay đi!
Cao. Cao nữa. Trên tầng cao xanh chót vót…
…Bên ngoài tiếng vỗ cánh loài chim lạ sẽ đánh thức bạn
Bay đi!
Bay đi!
Với dáng điệu quen thuộc (những bước đi hoặc bằng tất cả quyến rũ gợi nên sự diêm dúa của loài chim)
Tôi viết thơ cho bạn cũng trong căn phòng chật hẹp
Vì thế nỗi niềm chúng ta có dịp gặp gỡ, chúng rủ nhau chạy trốn
Và vì một điều gì không cưỡng lại được, ta hãy cho chúng bay đi
!(27)

Các sáng tác của nhà thơ nữ trước đó không phải không có tang chứng [thừa nữa là khác] để đối sánh, nhưng tôi đã cố ý trích dẫn thơ của quý ông. Có lí do chính đáng của chọn này.
Thuở còn bé, tôi thường đi đưa tang người chết, già có trẻ có, người thân lẫn kẻ hàng xóm. Những tiếng khóc kể não lòng, dành cho người vừa mất … Tiếng khóc như ngân: du dương, trầm bổng đầy ai oán. Người này rồi đến người khác, tuần tự; hoặc đôi lúc cả nhóm. Tiếng khóc than làm xao động lòng người, khiến kẻ thần kinh chai cứng đến đâu cũng muốn rưng rưng. Khóc có vần điệu, khóc có bài, khóc như hát là vậy. Đố ai dám bảo họ khóc giả! Đau khổ của người cha mất con, vợ mất chồng (“Khóc như chồng chết” – tục ngữ Chăm) … thì không thể nào giả được. Giọng khóc kể đó phát nguyên từ chiều sâu văn hóa, trong một môi trường văn hóa tương ứng. Có thế, nó mới gây cho người nghe một xúc động chân thật. Còn hôm nay, nếu gặp hoàn cảnh không may, chúng ta lại ngân lên như thế, thì chắc chắn sẽ nhận lấy những tiếng cười bị nén lại, tiếng cười rất bất lịch sự bật ra không phải lúc, từ những kẻ vì yêu thương mà đi tiễn người thân của chúng ta vừa sang cõi khác.
Giọng khóc hôm nay đã khác. Thơ cũng vậy.
Nhà thơ hôm nay đã đánh mất sự ngây thơ – ngây thơ trong tình yêu, trong niềm tin… Nói như một nhà văn Tây phương đương đại, chúng ta đang sống trong một thời đại mà văn chương đã đánh mất sự ngây thơ của mình. Một tin lành chăng!?

Tin lành – chắc chắn thế!
Do đó, mặc dù tôn trọng phân tích của Nguyễn Hòa, nhưng tôi khó đồng ý với lối nhìn hơi bi quan của anh:
“Vào lúc các lí thuyết gia đang quảng bá cho một nền văn học “hậu hiện đại”, tôi vẫn không tin lúc này văn học của chúng ta đã bước vào giai đoạn “hậu hiện đại”, bởi liệu nền tảng là trình độ tư duy đã đi hết con đường “hiện đại” hay chưa. Phân tích kỹ lưỡng, chưa biết chừng trình độ tư duy của chính những người đang say mê quảng bá vẫn còn ở trong giai đoạn “tiền hiện đại” cũng nên!” (28)

*
Từ ý thức-thơ đến hành động-thơ, từ cựa quậy đập phá đến tìm đường, hay nói như Nguyễn Thị Hoàng Bắc: từ “Chúng tôi vì đàn ông” đến nổi loạn cướp ngọn cờ “Tuyên dương”(29) để rốt cục bình tĩnh miệt mài đi tìm và tìm thấy vị thế cùng giọng điệu mình, là một hành trình dài, gian nan và bất trắc. Như thể từ một biện chứng đời chuyển sang biện chứng thơ hay ngược lại. Trên con đường khổ ải đó, không ít chị em đã thất bại, ngã lòng, chiêu hồi làm thứ “Em vẫn thuộc sự sống của anh, trọn vẹn” (Vi Thùy Linh) an phận đầy tòng thuộc. Còn nhìn chung, có nhiều dấu hiệu đáng mừng. Tin lành khắp nơi bay đến.

NGỌN CỎ

tiếng nước đái
nhỏ giọt
trong bồn cầu tí tách
thứ nước ấm sóng sánh vàng
hổ phách
trong người tôi tuôn ra
phải rồi
tôi là đàn bà
hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ
bây giờ
được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ
tương lai không chừng tôi sẽ
to con mập phệ
tí tách như mưa
ngọn cỏ gió đùa(30)

Thế giới hôm nay cung cấp cho nữ giới bao nhiêu là tấm gương chói lòa, với đủ đầy phương tiện hiện đại [“bồn cầu” là một trong những]. Họ ý thức sâu thẳm và mãnh liệt rằng mình là một nửa nhân loại. Chính họ đã và đang góp phần tạo nên lịch sử thế giới. Chứ không bị đẩy ra bên mép rìa xã hội hay đứng ngoài lề văn học như đã từng nữa.
Trong văn học nghệ thuật, chủ nghĩa hậu hiện đại chủ trương giải-khu biệt hoá (de-differentiation) và phi tâm hoá (de-centring), dẫu trung tâm đó đó là Âu Mĩ nay hay Trung hoa xưa; ở đây là vị thế đàn ông trong văn hóa phụ hệ, đã tạo đà cho nhà văn nữ tự tin dấn tới. Không còn thái độ xốc nổi con nít thuở tiền-hậu hiện đại: phủ định, phản kháng và hô hào nổi loạn (tôi gọi đó là thứ thơ-nói to, thơ-la làng) – cần, nhưng không đủ, mà là: nhắm tới việc cắt đuôi hậu tố “nữ” trong chính sáng tác phẩm của mình.
Từ chối giọng điệu cải lương yểu điệu thục nữ, hết còn căng thẳng bật máu với cánh đàn ông, với truyền thống, cũng không thèm đóng thùng trịnh trọng mô phạm dạy đời (Lê Thị Thấm Vân), biết cười người (Phan Huyền Thư) và nhất là biết cười mình (Nguyễn Thị Hoàng Bắc), nhà thơ nữ hôm nay đang vượt thoát khỏi mặc cảm thân phận, khỏi trở lực nếp nhà đầy quy ước gò bó của ngôn ngữ Việt, sẵn sàng vươn đến nơi chốn sự sự vô ngại trong cõi sáng tạo.

Sài Gòn, tháng 12.2005.
___________________
Chú thích:
(1) “Bài ca ngựa non”trong Thơ Hôm nay, Nxb.Đồng Nai, 2003.
(2) Vi Thùy Linh, Linh, Nxb.Hội Nhà văn, 2000.
(3) “Đỉnh hoa”, Evan.vnexpress.net, 2004.
(4) Umberto Eco, Dẫn lại theo: Nguyễn Hưng quốc, Văn học Việt Nam, từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại, Văn nghệ, Hoa Kì, 2000, tr.192.
(5) Các đoạn thơ được trích dẫn từ Website Evan.vnexpress.net, 2004-2005.
(6) Nguyệt Phạm, “Những đàn bà trong thành phố”, Evan.vnexpress.net, 2004.
(7) “Thụy Du”, Evan.vnexpress.net, 2004.
(8) Phan Huyền Thư, Nằm nghiêng, Nxb.HNV, 2002, tr.16.
(9) Thanh Xuân, “Chưa phải ngày cuối cùng”, Evan.vnexpress.net, 2004.
(10) Ví dụ đọc “Đỉnh hoa” của Phương Lan, chúng ta không thể không nhớ tới Lê Thị Thấm Vân: “Căn phòng 2.2 – âm thanh sóng”, Tc.Thơ, số mùa Đông 1999; hay Trân Sa, “Động tác yêu”, Nhanhnho.org, 2001.
(11) “Bài ca ngựa non”, trong Thơ hôm nay, Nxb.Đồng Nai, 2003, tr.213.
(12) Đinh Thị Như Thúy, “Một ngày tháng sáu”, Vannghesongcuulong.com, 10.06.2006.
(13) Khương Hà, “Bên trái là đêm”, Dự báo phi thời tiết, Nxb.HNV, 2006, tr.32.
(14) Trương Gia Hòa, Sóng sánh mẹ và anh, Nxb.VN, 2005, tr.88.
(15) Khương Hà, “Lẩn thẩn”, Sđd, tr.42.
(16) Nguyệt Phạm, “Chữ gọi mùa đam mê”, Sđd, tr.87.
(17) Lê Thị Thanh Tâm, “Gởi một người đàn bà làm thơ”, Thơ trẻ Tp.Hồ Chí Minh, Nxb.Trẻ, 2002, tr.106.
(18) Lê Khánh Mai, Đẹp, buồn và trong suốt như sương, Nxb.Hội Nhà văn, 2005, tr.56.
(19) Trương Gia Hòa, Sđd, Nxb.Văn Nghệ, 2005, tr.88.
(20) Lê Khánh Mai, Sđd, Nxb Hội Nhà văn, 2005, tr.61.
(21) Vi Thùy Linh, Khát, Nxb.Hội Nhà văn, 2002.
(22) Phạm Xuân Nguyên trong: “Phê bình văn học hiện nay, cái thiếu và cái yếu”, Tham luận tại Toạ đàm Phê bình văn học – Bản chất và đối tượng do Viện Văn Học tổ chức tại Hà Nội ngày 27.5.2004.
(23) Dương Tường, “Mười năm trên giá sách văn chương”, Talawas.org, 2004.
(24) Xem thêm: Trần Wũ Khang, “Nhà phê bình chuyên-nghiệp dư”, Talawas.org, 2005.
(25).Nguyễn Vy Khanh, “Thơ hôm nay”, Demthu.lonestar.org, 10.2003.
(26) Phan Huyền Thư, Sđd.
(27) Thúy Hằng, “Viết cho chim sơn ca”, Thơ trẻ Tp.Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2002, tr.15.
(28) Nguyễn Hòa, “Văn chương 2004 – oằn mình giữa “nhập nhòa” cũ – mới”, Evan.vnexpress.net, 21.01.2005.
(29) Tên hai bài thơ của Nguyễn Thị Hoàng Bắc, 26 nhà thơ Việt Nam đương đại, Tân Thư xuất bản, Hoa Kì, 2002.
(30) Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Sđd, tr.27.

*
Tạp chí Nhà văn, tháng03.2007.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *