Chế Vỹ Tân: Nguồn gốc địa danh…

NGUỒN GỐC CỦA MỘT SỐ ĐỊA DANH
THUỘC NINH THUẬN VÀ BÌNH THUẬN

Kì01.

CÀ NÁ
Trước đây cũng như hiện nay, Cà Ná là một địa điểm du lịch của cực nam Trung bộ, nổi tiếng về cảnh đẹp núi biển ôm sát nhau. Cà Ná còn là vùng có những cây mai vàng năm cánh rất đẹp. Mỗi độ xuân về, toàn đồi núi khu vực này rực lên một màu vàng nhạt tựa như một bức tranh huyền ảo…
Cách biển một cây số về hướng Tây, tọa lạc một làng Chăm – làng Rabha Ralauw – nay không còn nữa. Phía trên nữa có con suối nước rất trong, chảy róc rách quanh năm; trước kia người dân địa phương gọi là Suối Tiên, ngày nay chính là Suối Vĩnh Hảo…
Lúc bấy giờ, từ “Quốc lộ số 1” (ngày nay), lại có một con đường tẻ lên làng Chăm và Suối Tiên. Ngã ba đó, người Chăm gọi là Canah kluw (đọc là Chanah klău); Canah có nghĩa là tẻ ra, kluw nghĩa là ba (ngã ba).
Người Việt đọc trại ra thành “Cà ná lâu”, về sau chữ “lâu” này rụng đi, chỉ còn lại “Cà na”.

THỊ NẠI hay NẠI
Dọc theo duyên hải miền Trung Việt Nam, chúng ta tìm thấy nhiều địa danh mang tên Thị Nại hoặc Nại.
Tại tỉnh Ninh Thuận, thôn Dư Khánh thuộc xã Khánh Hải, huyện Ninh Hải, cũng có tục danh là NẠI. Vậy thì “Nại” này có nguồn gốc từ đâu?
Xưa kia, người Chăm sinh sống dọc bờ biển thường làm nghề đánh cá. Mỗi buổi sáng hay buổi chiều đều có các thuyền đánh cá tấp vào một vài nơi nhất định (nơi có những cư dân đông đúc) để bán cá. Do đó, về lâu về dài, những nơi này hình thành những “chợ nhỏ”, chủ yếu là để bán cá tươi cho người địa phương và các dân buôn.
“Chợ nhỏ” đó tên Chăm là darak naih (darak là chợ, naih là nhỏ), đọc là “tàrạk neh”. Người Kinh dịch chữ darak là Thị, còn chữ naih lại ngỡ là danh từ riêng, nên cứ gọi là Né hay Thị Né. (Sự chuyển đổi từ phụ âm cuối Chăm h sang thanh hỏi hay nặng trong tiếng Việt là điều thường gặp).
Vì thế, chữ Né và Thị Né đọc trại ra thành NẠI hay THỊ NẠI, và các từ này tồn tại cho đến ngày hôm nay.

SÔNG DINH
Tại thị xã Phan Rang – Tháp Chàm thuộc tỉnh Ninh Thuận, có con sông Cái từ thượng nguồn chảy về biển, băng ngang qua phía Nam thị xã này. Người địa phương gọi con sông đó là Sông Dinh.
Từ Dinh này có phải có nguồn gốc từ tiếng Chăm không?
Theo chúng tôi, có lẽ từ Dinh xuất phát từ chữ DING (đọc là Tìng) của người Chăm. Ding có nghĩa là phố, nau ding có nghĩa là đi xuống phố.
Con sông chảy ngang phố (phía nam Phan Rang), người Chăm gọi là KRAUNG DING (có nghĩa là Sông Phố), và người Kinh phiên âm ra thành SÔNG DINH, theo âm tiếng Chăm đọc trại ra.

SÔNG MAO
Sông Mao là một địa danh thuộc tây bắc huyện Bắc Bình tỉnh Bình Thuận, trước đây (sau giải phóng) là huyện lỵ của huyện Bắc Bình.
Theo hiểu biết của chúng tôi, từ Sông Mao có nguồn gốc khá lí thú! Qua sự giải thích của một thân hào Chăm, chúng ta có thể hiểu như sau:
Trong khu vực Sông Mao bây giờ có đồng ruộng của người Chăm tục gọi là Hamu Pa-auk (đọc là pa-ó, nghĩa là cây xoài). Cạnh ga Sông Mao có một con sông nhỏ người Chăm gọi là kraung pa-auk. Người Kinh dịch thành SÔNG PA-Ó. Chuyển đổi âm từ P của Chăm sang M của Việt: từ Sông Pa-ok được viết là Sông MA-Ó. Vả lại thời Pháp thuộc dấu sắc ở nguyên âm o không thể hiện được trên máy đánh chữ (ó thành o), vì vậy trong các văn bản hành chánh thời đó ta thường thấy viết Sông Ma-o. Sau này, dấu ngang rụng đi do cách đọc gộp thành một âm của những người Pháp (thời Pháp thuộc), cuối cùng ta có từ SÔNG MAO của ngày hôm nay.

*
Trong Tagalau4.

Kì02.

Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết mà các sách địa lý thường gọi là “Tam Phan”, được cả nước biết đến là do đặc điểm ít mưa nhiều nắng nhất nước. Đây là 3 địa danh thuộc cực nam Trung bộ, xưa kia thuộc đất Panduranga, tiểu bang cực nam của xứ Champa cũ.
Theo chúng tôi tìm hiểu thì cả 3 từ này đều có nguồn gốc từ tiếng Chăm.

PHAN RANG là biến dạng của từ Chăm: PA-NRANG, hay còn được gọi là PANDARANG. Đó là từ địa phương viết theo tiếng Chăm hiện đại (akhar thrah) để chỉ vùng tỉnh Ninh Thuận ngày nay. Thông thường các nhà nghiên cứu Việt nam và nước ngoài hay nhầm lẫn giữa 2 danh từ Pandarang và Panduranga vì cho 2 từ này chỉ là một (đồng nghĩa với nhau). Sự thật không phải thế, vì Panduranga là tiếng Phạn (Sanscrit) dùng để chỉ vùng đất chung của cả 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay, đúng hơn là cả một phần của Đồng Nai nữa, vì các sách cổ Chăm luôn nhắc đến Đồng Nai thượng và Đồng Nai hạ, khi nói đến Panduranga (theo E.Durand. P.B.Lafont và L.Finot).

PHAN RÍ: Đây là phiên âm của danh từ Chăm PA-RIK, địa danh chỉ vùng nằm giữa KRONG (tức sông Lòng Sông hay huyện Tuy Phong hôm nay) và PAJAI (tức Phố Hài). Panrang – Kraung – Parik – Pajai là 4 vùng chính của Panduranga cũ đang có đông cư dân Chăm.
PHAN THIẾT: Đây là sự biến dạng của từ Chăm HAMU LITHIT (Ruộng Lithit). Người Chăm thường gọi tắt là Mu Thit, nên trước đây được phiên âm là Man Thiết (thời Pháp thuộc) trước khi trở thành Phan Thiết của ngày hôm nay.

LADI: tức là vùng huyện Hàm Tân bây giờ (thuộc tỉnh Bình Thuận), xưa kia là đất Nưgar LADIK của xứ Panduranga cũ (đọc là La-tik theo âm Chăm). Danh từ LADIK được phiên âm thành La Di ngày nay.

SÔNG LA NGÀ: Đây là con sông bắt nguồn từ bình nguyên Lâm Đồng, chảy qua các huyện phía nam tỉnh Bình Thuận để đổ xuống biển Đông. Vậy, từ La Ngà có nguồn gốc từ đâu? Đây không phải là một danh từ Chăm. La Ngà có nguồn gốc từ tiếng Kơho, vì sông này có dòng chảy băng qua các vùng cư trú của đồng bào Kơho. Vào mùa hạ, sông này khô nước, lòng sông nổi lên nhiều đá cuội đen trắng lấp lánh dưới ánh mặt trời giống như một bãi phơi hạt mè màu trắng đen vậy. Vì thế mà người Kơho đặt tên con sông này là sông LƠNGA – sông Hạt Mè (Lơnga là hạt mè (vừng – theo Từ điển Việt – Kơho, Sở VHTT Lâm Đồng, 1983, tr.164). Người Việt phiên âm là La Ngà.
Người Kơho còn gọi con trâu trắng có chấm đen li ti là “rơpu lơnga” (con trâu hạt mè).

CỔ HỦ: là tục danh của làng Mỹ Tường thuộc xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Làng này tọa lạc gần biển, và trước đây mang địa danh là BAL HUH của Champa cũ (Bal: thủ đô, đây là thủ đô tạm thời khi phải di chuyển về phía nam do chiến cuộc cũng như sau này chuyển về Bal Ywa, Bal Lai, Bal Caung (1)… trước khi đến Bal Canar ở Phan Rí là thủ đô cuối cùng). Sau này khi không còn Bal nữa, người Chăm chỉ gọi gọn địa danh này là HUH. Chính từ HUH này đã được phiên âm biến thành Cổ Hủ.

HÒA LAI: là một địa danh ở bắc Ninh Thuận thường được gọi là Ba Tháp, thuộc xã Tân Hải, huyện Ninh Hải. Trên quốc lộ số 1, du khách bắt gặp hai ngọn tháp Chăm cổ kính tọa lạc phía đông con đường, cách ranh giới Khánh Hòa – Ninh Thuận khoảng 8 km (ngọn thứ ba đã bị đổ nát từ lâu). Nơi đây chính là HÒA LAI. Xưa kia địa danh này mang tên là BAL LAI (thủ đô đã điêu mất). Chính từ Bal Lai này đã được phiên âm thành Hòa Lai.

GÒ ĐỀN là tên gọi của một làng Công giáo tọa lạc giữa Hòa Lai và Hộ Diêm, thuộc xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh NinhThuận. Khu vực này là một gò lớn, và ở giữa gò ấy có một cái đền của người Chăm. Đền này đã đổ nát và ngay trên địa điểm đó bây giờ nhà thờ Công giáo được xây dựng lên. Vậy địa danh Gò Đền mang đặc điểm của khu đât này: đất GÒ có ĐỀN của người dân tộc Chăm.

GÒ SẠN là tên gọi một làng nằm sát phái bắc Gò Đền. Đây cũng là vạt đất gò cao tiếp nối với vạt đất Gò Đền. Vạt đất này là đất sạn (đá sỏi nhỏ). Chính vì đặc điểm này mà người dân địa phương mới đặt tên là Gò Sạn.

CÀ ĐÚ, CHÀ BANG
Đây là tên gọi 2 hòn núi ở phía bắc và phía nam tỉnh Ninh Thuận.

CÀ ĐÚ là hòn núi ở phía tây Đầm Nại, thuộc xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải. Nơi đây có làng mang tên là làng Cà Đú (nay đổi lại thành thôn Lương Cách). Cà Đú là một từ Chăm xuất phát từ tên gọi hòn núi KAĐUK nói trên. Từ Kađuk được phiên âm ra tiếng Việt là Cà Đú.
CHÀ BANG là tên gọi hòn núi ở phía bắc thôn Văn Lâm (cách chừng 7 km) thuộc xã Phước Nam, huyện Ninh Phước. Người Chăm thường gọi là Cơk Cabbang, có nghĩa là hòn núi có ngọn tẻ đôi như “cabbang” (chữ V).
Người Việt phiên âm thành Chà Bang.

PALEI RƠM (đọc là râm). Từ RƠM này rất gần gũi với người Chăm, nhưng rất ít người Chăm hiểu nghĩa chính xác của nó là gì. Xin nói rõ Palei Rơm là tục danh của thôn Văn Lâm (thuộc xã Phước Hải, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận). Từ trước đến nay đại đa số người Chăm chỉ hiểu từ “râm” là rừng rậm; từ đó suy diễn ra một cách lôgic là trước đây khu vực này toàn rừng rú rậm rạp, đầy thú dữ. Nhưng khi đọc lại các văn bản cổ Chăm, ta mới hiểu từ “râm” còn có nghĩa khác là: “đất gò” (đất cao), nhất là khi tra cứu từ điển Malaysia thì ta càng sáng tỏ hơn, chữ “râm” đúng có nghĩa là “đất gò”.
Vậy “Palei Rơm” có nghĩa là thôn Đất Gò, và nói theo tiếng Chăm thông thường là Palei Tabbok (đọc là tabôk). Rõ ràng chúng ta đang sử dụng từ ngữ đó mà không nhận ra Tabbok Gah: chỉ ấp Gò Dưới, Tabbok Krưh: chỉ ấp Gò Giữa, và Ram Ngauk để chỉ ” ấp Gò Trên” đó sao?

(1) Chú thích: thứ tự này là do tác giả suy luận theo lôgic từ biển lên giữa đất liền, và từ bắc xuôi về nam tại Pandarang, chứ không tìm ra trong tư liệu nào. Vậy tính chính xác không được đảm bảo.

*
Trong Tagalau5.

Kì03.

ĐÀ NẴNG. Là biến dạng của từ Chăm DAKNAN. Theo tài liệu của cụ Bố Thuận (nhà nghiên cứu Chăm, gốc Phan Rí, sống vào đầu thế kỷ XX) thì chữ dak có nghĩa là nước (Chăm cổ), nan hay nưn (tức lanưng) là rộng. Địa danh Daknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông (cửa sông Hàn bây giờ). Người Việt phiên âm ra thành Đà Nẵng.
Tourane. Vào thời Pháp thuộc (và trước đó), địa danh Đà Nẵng thường được gọi là Tourane. Vậy từ Tourane này do đâu mà ra? Cũng theo tài liệu của cụ Bố Thuận thì chữ DAKNAN của Chăm người Trung Hoa gốc Hải Nam đọc là TOUNAN, do đó mà phiên âm thành Tourane.

CÙ LAO CHÀM. Đó là một hòn đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nam. Trước đây, cù lao này là nơi cư trú của các dân chài Chăm (tức Chàm) và dĩ nhiên mang tên Chăm. Rất tiếc hôm nay không ai còn nhớ. Về sau, qua biến đổi của lịch sử, người Chăm đã di tản đi nhiều nơi (có lẽ đông nhất là Hải Nam của Trung Quốc) và người Việt gọi địa danh này là Cù lao Chàm, nghĩa là cù lao của người Chăm cư trú trước đây.

SÔNG CAM LỘ. Sông Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, có lẽ có nguồn gốc từ chữ Ca Lo, hay còn gọi là Khu Lu, và danh từ này đã được phiên âm ra thành Cam Lộ của ngày nay.

BỒNG MIÊU. Bồng Miêu là một vùng đồi núi thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Xưa kia những đồi này có nhiều vàng mà người Chăm đã từng khai thác. Chính vì vậy mà vùng này mang địa danh Chăm là Bbon Amưh (Đồi vàng), và được phiên âm thành Bồng Miêu.

TRÀ BỒNG, SƠN TRÀ, TRÀ KHÚC, TRÀ MI. Đó là những địa danh thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Những từ ngữ này gợi lại những âm Chăm: Chữ Trà là phiên âm của chữ phạn Jaya (một trong 4 họ chính thống Ôn, Trà, Ma, Chế của người Chăm).

SÔNG ĐÀ RẰNG. Đó là con sông chảy qua phía nam Thành phố Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên. Từ Đà Rằng mang âm Chăm và có nguồn gốc từ chữ Dairios (tên của con sông này trước kia). Chính từ này lại được phiên âm từ chữ Dak Riong, có nghĩa là sông sâu hầm hố (từng chữ một: hầm hố liên tiếp). Từ chữ Dairios, người Việt phiên âm thành Đà Rằng.

ĐẬP ĐỒNG CAM. Đập Đồng Cam tọa lạc tại Phú Yên, nơi có đồng ruộng lúa nước lớn nhất miền Trung. Đập này xưa kia chắc chắn mang tên Chăm nhưng nay không ai còn nhớ nữa. Người Việt đặt tên đập này là Đập Đồng Chàm, nghĩa là đập của đồng lúa người Chàm trước đây. Nhưng vào thời Pháp thuộc, người Pháp viết là Cam (chữ Cam họ viết theo bộ chữ cái Chăm theo hệ thống latinh hóa của E.Aymonier trong đó chữ C mang âm Ch). Nhưng hôm nay chúng ta đọc theo chữ cái Việt thành “Cam” thay vì Cham.

VẠN GIÃ. Dãy núi trùng điệp tạo ra Đèo Cả ở bắc Khánh Hòa trước đây mang tên Kauthara (cũng là tên Tiểu vương quốc của Thánh địa Po Nagar). Nhiều học giả Chăm khẳng định từ Vạn Giã là biến dạng của chữ Kauthara vậy.

NHA TRANG. Thành phố thuộc xứ Kauthara cũ, người Chăm thường gọi là Ia Trang (Ia là nước, Trang là đan chéo) hàm ý chỉ nơi có hai luồn nước chảy đan chéo nhau. Danh từ Ia Trang được phiên âm ra thành Nha Trang ngày nay. Cũng có một nhận định khác là chữ Trang (trong Ia trang) có nghĩa là lau, sậy. Và từ Ia Trang dùng để chỉ vùng sông nước có nhiều lau sậy.

*
Trong Tagalau6.

15 thoughts on “Chế Vỹ Tân: Nguồn gốc địa danh…

  1. Thật thú vị sau khi xem qua nguồn gốc của một số địa danh, tôi bổ xung cho mình kiến thức, và học hỏi được nhiều, vì sao lại có tên là Đà Nẵng… Nhưng đáng tiếc lá những địa danh của Việt Nam còn nhiều, nhưng “Nguồn Gốc Địa Danh” vừa xem qua còn hạn chế.

    ĐT: 01222197996

  2. Mình đang tìm hiểu các địa danh ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Mình rất vui khi được bổ sung thêm kiến thức từ bạn. Nhưng những kiến thức này chính xác đúng không? Bạn có thể cho mình biết nguồn tài liệu lấy ở đâu ko?

  3. Chào peluoj!
    Theo bạn thì tài liệu nào, do ai viết là đáng tin cậy và chính xác đúng?
    Theo JA, tài liệu là tài liệu, nhất là những tài liệu về văn hóa lịch sử nói chung, chưa kể những tài liệu về Chăm và những vùng lãnh thổ thuộc Champa trước đây. Đúng hay chưa đúng là cả một vấn đề rất “to” bạn ạ!

    Một lời khuyên chân thành, đúng hay không đúng, chính xác hay không chính xác nên do chính bạn tìm hiểu, đối chiếu giữa các nguồn tài liệu và các luận cứ khác nhau dựa trên nhiều yếu tố: ai viết? viết cái gì? viết vì cái gì? họ lập luận thế nào? có điểm hở nào để mình đặt vấn đề, nghi vấn hay không? …

    Một khi, bạn có được những nghi vấn (đương nhiên thay vì nghi vấn “nó có chính xác không?” thì bạn nên tán nhỏ nó ra là tại sao, ở những điểm nào … mà bạn nghi vấn?), nghi vấn của bạn được giải thích cho đến khi không còn nghi vấn thì đó ắt sẽ là tài liệu mà bạn nên tin cậy.

    Thân chào và chúc bạn sớm có câu trả lời cho các nghi vấn của mình.
    JA

  4. bài đăng rất bổ ích, cảm ơn ad rất nhiều, mình học về văn hóa- du lịch nên rất cần bổ trợ nhiều về mặt kiến thức. Rất mong ad có thể cung cấp thêm nhiều nguồn gốc các địa danh cho mình cũng như là mọi ng` cùng mở mang kiến thức.

  5. 2 danh từ Pandarang và Panduranga vì cho 2 từ này chỉ là một (đồng nghĩa với nhau)
    +++++
    xin cho cháu hỏi nghĩa của 2 từ này. cháu cám ơn chú

  6. chú ơi!
    PA-RIK trong tiếng chăm nghĩa là gì vậy chú?

    giúp giúp cháu với,cháu cám ơn chú :”)

  7. Pa-rik không có nghĩa.
    Còn Pangdurangga viết khác như vậy, mình đã có 1 bài trên web này rồi, bạn đọc nhé.
    Ví dụ chữ PANDURANGA, mọi người đều viết thế, phát âm là “pang-tù-rang-kà” (tạm vậy). Nhưng nếu chịu truy nguyên, nó lại khác, có viết như thế đâu chứ!

    Panduranga, là một trong bốn vùng văn hóa – lịch sử thuộc vương quốc Champa cổ, gồm Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay. Đây là chữ vay mượn Sanskrit: PANDURANGA, ở đó, chữ N trước và D có dấu nặng (.) phía dưới, chữ N sau có dấu nặng (.) ở phía trên.
    Từ điển Cam – Francais của Aymonier – Cabaton (p. 299), viết:
    PANDARAN, với hai chữ N đều có dấu nặng (.) ở trên tương đương với pauh ngưk mưtai (NG) hiện nay. Ngoài ra, P có dấu gạch ngang dưới chân, tương đương chữ pak praung (“p lớn”) phân biệt với “p nhỏ”.
    Aymonier dịch nghĩa: Nom littéraire de la plaine appelée aussi Panran par les Cams (chú ý: N trong Panran có dấu (.) ở trên).

    Điều này chỉ rằng, khi Champa suy tàn và vùng đất văn hóa – lịch sử Panduranga khi xưa bị phân thành 4 vùng: Panrang, Kraung, Parik, Pajai thì Panduranga đã thành Panrang. Ariya Glơng Anak viết cụ thể hơn PRANGDARANG để phân biệt với Panduranga. Ngoài ra tác giả này còn sáng tạo thêm từ PHUN DARANG, để chỉ khu vực trung tâm của miền đất này. Chú ý thêm: Tác giả của Ariya Glơng Anak đã sáng tạo rất nhiều từ mà trước đó kho tàng từ vựng Chăm chưa có. Từ đó gây ngộ nhận cho nhiều người, ngay cả các nhà chuyên môn. Thiên tài là vậy. Đọc Ariya Glơng Anak mà không lưu tâm đến sự sang tạo ngôn ngữ của tác giả này thì coi như mất đi một nửa sự thú vị.

    Trở lại mục đích của bài viết:
    Qua dẫn luận, PANDURANGA lẽ ra phải viết là PANGDURANGGA, mới thể hiện đúng chữ akhar thrah (2 pauh ngưk). Nhưng bởi kĩ thuật máy chữ, nhiều người viết đã bỏ N-có-dấu-nặng-trên thành N, riết rồi thành quen.
    Thân mến
    Inrasara

    • cháu chào Chú !
      Chú cho cháu hỏi từ tà kou, tà zôn, tà pao có nghia là gì ạ?

  8. chú ơi, cho cháu hỏi, cháu đã tìm các tên có nguồn gốc xuất phát từ tiếng Chăm tại các tỉnh Tây Nguyên mà k có ra dc chú ơi, chú chỉ zúp cháu với. Mà hình như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh cùn k có các địa danh vùng Chăm phải k chú

  9. Xin cảm ơn về các thông tin, ngay tại Hà Nội cũng có nhiều địa danh, tộc họ có nguồn gốc CHĂM, rất mong có các thông tin để trao đổi. ĐT 0903213877

  10. Kính thưa chú Inrasara
    Cháu xin chú dành chút thời gian giải đáp giúp cháu về địa danh MA LÂM (thuộc huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận): Hamu’ Akam, dịch sang tiếng Việt có nghĩa là Ma Lâm? Nếu đúng vậy, thì vì sao mình gọi vùng đất này là Hamu’ Akam?
    Cháu xin cảm ơn chú và chúc chú sức khỏe, hạnh phúc.
    Nguyên Tài (Bình Thuận)

  11. Dia danh Van Gia theo em Van o day la van chai, gia la nho. Noi cua song nho, chi song hien luong do ra vinh van phong.

  12. vui lòng cho mình xin những tên gọi địa phương tại đà Nẵng mang nguonnf gốc chăm với.
    cho mình hỏi có phải từ bắt dầu từ “đà”, “Trà”, … là gốc chăm đúng không

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *