Nhà thơ cần biết sợ thơ để người đọc còn cần thơ

1. Thơ là gì?

Thơ hình thành từ thuở có con người, và chắc chắn nó chỉ bị triệt tiêu với sự biến mất của loài người. Từ khi loài người biết suy tư và có chữ viết, các tư tưởng gia, triết gia đã nỗ lực tìm cách định nghĩa thơ nhưng, bao giờ cũng bất lực và dừng lại trước bí ẩn của thơ. Thế hệ đi tới tiếp tục thử sức nữa. F.M.Voltaire: Thơ là hùng biện du dương, qua Alfred de Musset: Thơ là tiếng nói nhẹ nhàng của tâm tình, đến Stéphane Mallarmé: Thơ là sự biểu lộ ý nghĩa bí huyền của cuộc sống,…hay mới đây tại Việt Nam: Thơ là rác thải của cuộc sống con người! Khi người ta tưởng mình sắp chộp được ý nghĩa của thơ, thơ vuột khỏi tay lúc nào không biết. Chế Lan Viên: Thơ là gì? Thơ là thơ lơ mơ… Vậy thôi. Chấm hết!

2. Thơ có lợi không?

Câu hỏi bức xúc, nhất là trong thời đại tốc độ, chuộng bề ngoài hôm nay. Câu trả lời: thơ không có lợi thiết thực, rõ ràng, có thể cân đong đo đếm được. Nhưng dẫu sao nó cho ta cái cảm nhận rằng nó vẫn có “lợi”.
– Thơ hiến tặng con người lối nhìn mới về cái đẹp, không phải cái nhìn mới về thế giới khách quan (phần này các nhà khoa học lo) mà là cái đẹp của và cho tâm hồn. Mặt trăng chỉ là một vệ tinh của một hành tinh (trái đất) giữa vũ trụ, qua con mắt của các thi sĩ, trăng đã là chú cuội, ả hằng nga,… cho con người mơ mộng. Do đó, thơ làm đẹp cuộc đời.
– Thơ giúp giải tỏa phần nào đau khổ của con người. Khi ta bị bức xúc, bị đối xử oan khuất,…một đoạn/câu thơ được đọc lên bất ngờ hóa giải những ẩn ức, khiến tâm hồn ta thanh thoát.
– Thơ giúp con người trở thành người hơn, nhân bản hơn, biết thông cảm và tha thứ. Thử hỏi nếu không có Ariya Cam – Bini, xung đột hai tôn giáo này sẽ ra sao? Hố cách ngăn tình yêu giữa cô gái Chăm và chàng trai Bàni còn kéo dài đến bao giờ?
– Và ai dám bảo thơ không ích lợi thiết thực? Nhất Hạnh: trong gié lúa vàng đang trĩu hạt kia, câu ca dao: “Hỡi cô tát nước bên đàng / Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” đã đóng góp bao nhiêu phần trăm công lao, ai biết?
– Cuối cùng, chính thơ ca đã góp phần rất lớn vào lưu trữ, phủi bụi hay tắm rửa và, làm giàu sang ngôn ngữ dân tộc. Có ai dám phủ nhận công sức này?

3. Thơ khác khoa học thế nào?
Thơ, từ lâu được xem là thứ nghệ thuật cao cấp nhất trong các nghệ thuật. Nó bao hàm cả họa, nhạc, vẻ đẹp của ngôn từ,…
– Thơ thuộc thế giới thẩm mĩ; trong khi khoa học thuộc thế giới suy luận và thí nghiệm. Câu sai lầm nhất với nhà thơ là: tôi có kinh nghiệm. Nhà thơ đã viết được một tập thơ xuất sắc không đảm bảo tập tiếp theo hay bằng hoặc hay hơn.
– Công trình khoa học [tự nhiên] dẫu tốt đến đâu vẫn bị vượt qua bằng tóm tắt để truyền thụ cho thế hệ sắp tới (được vượt qua là bản chất của khoa học); không ai đọc công trình khoa học thuộc thế kỉ trước cả, mà chỉ tiếp nhận thành tựu của nó. Trong khi ngược lại, thi phẩm luôn phải được đọc/học nguyên bản, càng tóm tắt càng sai lệch và, cổ điển luôn tốt hơn.
– Công trình khoa học đi sau luôn tốt hơn, mới hơn công trình trước: thế hệ mới luôn đứng trên vai những người khổng lồ; trong khi trong sáng tác nghệ thuật: anh phải làm lại từ đầu.

4. Thơ và tri thức:
Thơ là tiếng nói của trẻ thơ, nhà thơ luôn tập luyện để nhìn sự vật như kẻ lần đầu trên trái đất này nhìn thấy, nói như Rainer M.Rilke. Nhưng trẻ thơ ở đây không được hiểu là trẻ nhỏ, mà trẻ thơ đã trải nghiệm qua 3 cuộc hóa thân. F.Nietzsche: từ lạc đà chất chồng bao gánh nặng tri thức của nhân loại trở thành sư tử cuồng nộ hủy phá tất cả, thanh tẩy tâm hồn để cuối cùng biến thành trẻ thơ. Một trẻ thơ có khả năng bước vào nước Thiên đường, như Phúc Âm dạy thế.
Trong lúc khoa học chất chồng càng nhiều tri thức càng tốt: ông buộc phải cập nhật khám phá mới, thành tựu mới hơn nữa, qua đó ông mới hi vọng có đóng góp của ông! Dĩ nhiên khoa học cũng cần học nhìn sự vật như thi ca nhìn – ngạc nhiên – nhưng đó là ngạc nhiên cho suy luận chứ không phải cho chiêm nghiệm cái đẹp.
Thật sai lầm tai hại nếu nghĩ rằng nhà thơ không cần tri thức hay không cần học kĩ thuật làm thơ.

5. Thơ hàng xài rồi:

Trong nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng, cái hay luôn đi kèm cái mới. Ezra Pound nói đại ý: Không thể có bài thơ hay theo cách thức của thế kỉ trước! Do đó vấn đề cách tân, đổi mới mãi là trăn trở hàng đầu của người làm thơ có lương tri. Về thể thơ: Không cứ mãi lục bát vần vè, nhà thơ Việt đã tiếp nhận và sáng tạo thể thơ 5,7,8 chữ. Rồi Thơ tự do Tây phương, Thơ Tân hình thức Mĩ,…Về chất liệu ngôn ngữ cũng thế.
Một người làm thơ kém tài hoặc biếng nhác lao động nghệ thuật hay có khuynh hướng xài hàng cũ, hàng đã qua tay. Từ đó, họ đẻ ra hàng loạt sản phẩm thơ second hand.
Nhịp sống hôm nay đã khác, nhịp điệu thơ cũng phải khác. Nó thách thức cái mòn cũ, do đó – thách thức chính nó.

Thử dừng lại lâu hơn ở nhịp điệu.

a. “Nhịp của thơ ta là lẻ trước chẵn sau, còn nhịp thơ của Trung Quốc là chẵn trước lẻ sau”(1). Nhận định này đúng, cả trong sáng tác bình dân lẫn bác học. Đây là nhịp điệu chính quy định trong cả chiều dài truyền thống thơ tiếng Việt, ít ra là cho mãi đến thời kì Thơ Mới. Thơ Việt lớn bởi đấy, mà hạn chế cũng bởi đấy.
Ở lục bát và song thất lục bát, thể thơ vốn được xem là thuần Việt, nó đã thế: sau chẵn.

Hỡi cô / tát nước / bên đàng
Sao cô / múc ánh / trăng vàng / đổ đi
(Ca dao).
Nhớ từ thuở / đăng khoa / ngày trước
Lúc sớm hôm / tôi bác / cùng nhau
(Nguyễn Khuyến).
Đôi lúc, bất chấp đến cấu trúc cú đoạn trong dòng thơ (có thể nhịp lẻ), mà theo áp lực chung của luật thơ (đúng hơn – nhịp chẵn truyền thống ăn vào máu), chúng ta “vẫn cứ ngắt các dòng thành những nhịp hai đều đặn, không hề cảm thấy có gì bất ổn cả”(2):
Nửa chừng / xuân thoắt / gẫy cành / thiên hương
(Truyện Kiều)
Chỉ khi nào dòng thơ xuất hiện tiểu đối, sự ngắt nhịp ba (nhịp lẻ) mới được phân định rạch ròi. Nhưng lúc đó, nhịp chẵn luôn đóng lại câu thơ ở dòng bát:
– Mai cốt cách / tuyết tinh thần
Mỗi người / một vẻ / mười phân / vẹn mười.
– Dĩa dầu hao / nước mắt đầy / năm canh
(Truyện Kiều).

b. Vay mượn Đường luật, Trung Quốc nhịp sau lẻ, chúng ta vẫn cứ theo thế mà làm. Hầu như chưa có nhà thơ nào có ý định phá cách cả! Từ các nhà thơ thiền sư thời Lí cho đến tận Huy Cận, Quách Tấn. Ngay Hồ Xuân Hương có tinh thần phá rào nhất – ước lệ cũ, ngôn từ cũ –, đã phải dừng lại trước nhịp điệu.
Nguyệt lạc / ô đề / sương mãn thiên
Giang phong / ngư hỏa / đối sầu miên
(Trương Kế).
Quả cau nho nhỏ / miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương / mới quệt rồi
(Hồ Xuân Hương)
Sóng gợn tràng giang / buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái / nước song song
(Huy Cận).
Nghĩa là nhịp thơ của chúng ta cứ cũ! Như thể cái khuôn có sẵn, nhà thơ cứ thế rót vào: ý, tứ, hình ảnh, vần, với mọi biện pháp tu từ mới lạ tạo sự lấp lánh đáng kể. Riêng nhịp điệu, thì chưa. Trong lúc hầu hết nhà thơ trên thế giới đều đặt nặng ở sáng tạo nhịp điệu để tạo nên khác biệt lớn của tác phẩm, mang đậm dấu ấn cá nhân.

c. Từ đó thơ chúng ta cứ thư thả mà cũ! Mãi khi một Bùi Giáng xuất hiện, lục bát Việt mới thực sự có nhịp mới: nhịp lẻ, nhất là ở dòng bát. Chúng có mặt đậm đặc, đủ để tạo nên cái phong cách riêng của Bùi Thy sỹ!
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm / đứng ngó / cây cối và
.
(dòng này còn có thể ngắt: Có / ngàn năm / đứng ngó / cây cối / và )
Nửa người xa lạ người yêu
Nửa thân thể / náo động / liều lĩnh xương

Chúng ta nói lục bát của Bùi Giáng mới, ở đùa bỡn với câu chữ thì ít, ở nhịp điệu mới nổi trội. Cũng như sau này, cách ngắt câu của Phạm Thiên Thư hay Nguyễn Trọng Tạo …, mức độ nào đó, làm mới lục bát:

núi nghiêng
suối vẳng tơ đàn
nhìn ngoài thạch động
mưa vàng lưa thưa
nghiêng bình
trà nhớ hương xưa
từ
vàng hoa nọ
bây giờ vàng hoa
(3)
Sau này, Du Tử Lê đã cố ý cắt nát lục bát bằng các dấu chấm, phẩy, gạch chéo … để tạo nhịp đi mới, nhịp chỏi cho thể thơ vốn khá mềm mại, êm dịu này – một cố ý thuần kĩ thuật. Vài ví dụ:

– Nằm nghe – chăn gối rơi. Cùng
tháng năm bằn bặt. – Phật còn ở không
Tôi nhìn – tôi rất chon von
núi non âm bản. – rừng son vẽ. – Buồn
– Còn tôi, – cõi nát – cõi tàn
cõi hoang mang, – vội, – cõi bàng hoàng, – qua
– chiều lên chiều lên tù mù
vàng tâm cổ thụ lá khu trục cành
lon bia lon bia chia buồn
nhớ, quên, một lũ chết bầm tương tranh
(4)

d. Với thể thơ 5,7 chữ cũng vậy, các nhà thơ Thơ Mới và hậu Thơ Mới đã tạo một cú hích khác làm chuyển động nhịp điệu vay mượn từ Trung Quốc:

Em ơi / Ba Lan / mùa tuyết tan
Đường bạch dương / sương trắng / nắng tràn
(Tố Hữu).
Chuyển động thôi, chứ chưa làm một bứt phá quyết liệt. Bởi hiện tượng phá nhịp ở thể 5, 7 chữ trong Thơ Mới rất hiếm. Như thể cái khuôn chỉ chịu dãn nở chứ chưa nứt vỡ ra. Thật sự chỉ đến khi chúng ta tiếp nhận Thơ Tự do, nhịp điệu thơ Việt mới được giải phóng toàn triệt. Ở đây đơn vị cơ bản của nhịp điệu là dòng thơ dài/ngắn rất chênh nhau. Trong một câu dài, chúng ta có thể ngắt làm nhiều nhịp nhỏ chẵn/lẻ, dài/ngắn thoải mái. Nó ít lệ thuộc luật thơ mà chủ yếu dựa trên quan hệ cú pháp, logic, biểu cảm và nhịp thở của nhà thơ lẫn kẻ tiếp nhận.
– Tháng Tám về rồi đây
Hôm nay / nghìn năm / gió thổi
Trời muôn xưa
Đàn con hè phố
Môi hớn hở
Ngày hẹn đến rồi
Các anh ngậm cười / bãi núi / ven sông
.
(Nguyễn Đình Thi)(5)
Những chiều xa quê / tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời /
cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi / như hai hốc đất ven bờ / nơi những chú bống đến làm tổ / được giàn giụa nước mưa sông
.
(Nguyễn Quang Thiều)(6)
Lắm lúc, nhất là ở thơ xuôi, nhịp thơ gần như bất tận muốn làm hụt hơi:

Anh tạ ơn trời đất đã sinh ra anh mang thương tiếc ngồi khóc nhớ em đêm hôm nay ngẩng đầu trăng sáng gục đầu trăng cũng sáng như sương bay mù không gian dắt tay em về anh ngó qua một chút.
(Bùi Giáng)(7)
Nhưng dù ngẫu hứng và tự do đến đâu – nhất là tự do trong phá vỡ luật cân đối về lượng âm tiết trong một/nhiều câu thơ –, thơ Việt thời kì này vẫn còn chịu sự trì níu của dư hưởng bằng/trắc. Câu/bài thơ luôn tạo cái thuận tai quen thuộc, nên nó cứ cho ta cảm giác cu cũ. Thử xét 2 đoạn trích dẫn ở trên:

… cười / …. núi / …sông: bằng / trắc / bằng.
…quê / …trời / …thấy và …bờ / …tổ / …sông
.

e. Chỉ vài năm trở lại đây, bằng thủ pháp vắt dòng (đa phần và có chủ định), bằng cố ý tạo nhịp trúc trắc, nhịp chỏi, các nhà thơ trẻ mới cải tiến cái mới của Thơ Tự do: một đóng góp quan trọng vào cách tân nhịp điệu thơ Việt:

Nằm nghiêng lạnh
hơi lạnh cũ. Ngoài đường khô tiếng ngáy
Nằm nghiêng. Mùa đông
nằm nghiêng trên thảm gió mùa

(Phan Huyền Thư)(8)
Rốt cuộc
Người đàn ông luôn bị chính cái đầu mình lừa dối
Không gì ngăn cản không gì thôi thúc
Người đàn ông bước theo sau dòng chảy cần mẫn thu lượm bóng cái đầu của chính mình và trả lời thay cho cái đầu về những điều chưa bao giờ cái đầu tự hỏi
Trong khoảnh khắc ấy
.
(Trần Tiến Dũng)(9)

f. Như thế, nhịp điệu trong thơ hôm nay đã thực sự được giải phóng. Khỏi mọi trói buộc: vần, luật bằng trắc, lượng chữ/âm tiết hay số câu, các lề lối tu từ cũ…. Nó dõng mãnh đi tìm luật tắc cho riêng nó, ở từng bài thơ, từng tập thơ, từng tác giả. Một nhịp điệu nội tại phát sinh qua trường cảm xúc (hơi thơ-hơi thở) ngay trong quá trình sáng tác bài/tập thơ. Với hi vọng mở toang mọi cánh cửa để thơ đến thẳng tâm hồn người đọc, không qua bất kì tấm kính thẩm mĩ cũ nào. Nên với thơ hôm nay, nó ít khi chịu bị ngắt ra vài dòng/đoạn để khen chê. Thành công hay thất bại là của cả khối.
Nhịp sống hôm nay đã khác, nhịp điệu thơ cũng phải khác. Không chịu phận lọt tọt theo đuôi, thơ hôm nay chẳng những đánh bạn song hành với đà sống, hơn thế, nó còn tham vọng lĩnh xướng đánh nhịp cho cuộc sống sắp tới. Nó thách thức cái mòn cũ, do đó – thách thức chính nó. Luôn luôn là vậy!

6. Thơ và cái giống thơ:

Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để…tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động chục năm qua là có thật. Ở đây không phải chê trách hiện tượng này, mà nêu lên để tìm nguyên do.
Người ta rất sợ viết tiểu thuyết; chưa đề cập chất lượng, đơn giản chỉ vì tiểu thuyết thì …dài. Cần nhiều công sức và thời gian. Thơ – dễ nuốt hơn. Dễ thành … nhà thơ hơn. Hấp dẫn lắm, vậy thôi. Chưa nói việc phân ranh thơ hay với thơ dở, ngay cả thơ với cái giống thơ cũng khó phân biệt. Chỉ qua con mắt của nhà thơ tay nghề cao hay nhà phê bình có khả năng thẩm thơ tinh tế (không ít nhà tự nhận phê bình đã thất bại trong tiếp nhận cái mới, từ đó sai lạc hay thậm chí phản động trong thẩm thơ), chúng mới lộ nguyên hình sản phẩm xài rồi.

7. Làm sao phân biệt được thơ và cái giống thơ?

Chỉ có thể bằng phương pháp loại trừ. Cái giống thơ dễ đánh lừa người đọc bằng sự quen thuộc. Quen thuộc ở giọng điệu: du dương, êm tai, rất ru hồn! Quen thuộc ở thể thơ cổ điển: câu cú dài ngắn đều đặn, nó khác văn xuôi dài loằng ngoằng, nghĩa là hình thức nó giống “thơ”. Ngôn từ được sử dụng cũng thuộc hàng quen thuộc. Ví “nhớ” thì phải là “nỗi nhớ nhung xa vắng”, chứ “nhớ” cộc lốc thì mất đi chất thơ! Thơ quen thuộc thích sự mơ hồ hơn tính cụ thể của ngôn ngữ thể hiện. Nữa: hình ảnh cũng phải “nên thơ” như: cô gái gánh lúa dưới ánh hoàng hôn, tà áo dài, cánh cò nghiêng nghiêng,…
Với kẻ tinh nghề và có tinh thần cách tân, thủ pháp chiều chuộng lối mòn này dễ bị bắt quả tang: nó không phải là thơ, hoặc chỉ là cái giống thơ; còn nếu quả quyết nó là thơ thì là thứ thơ dở, cũ mèm!

Bên cạnh, có cái mới tuyên xưng rằng mình là thơ. Nó mới – không sai, nhưng đó chỉ là cái có vẻ mới, mới thời thượng. Về lối thơ cách tân này, kẻ trong nghề cũng khó biện biệt thật hư. Thể thơ không cũ, ngôn từ rất mới, tôi không vần vè nè, tôi chọn nhịp chỏi tai khó nghe nè,… thì làm sao nhà bác dám bảo thơ tôi cũ!
Không cũ, nhưng không phải thơ! Ngôn từ ông/bà không đủ sức nặng để chuyên chở tứ thơ mới, đấy là chưa nói nhịp điệu nội tại của thơ ông/bà hoàn toàn vắng mặt! Nó không có ở đó trong hơi thơ-hơi thở của ông/bà. Nó lạc điệu trong tổng hòa một thể nhất thống gọi là: bài thơ.

8. Kết luận:

Tóm lại: Nhà thơ cần biết học sợ thơ… Để người đọc còn cần đến thơ.

_____________________
Chú thích:

(1) Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, Nxb.KHXH, H., 1971.
(2) Phan Diễm Phương, Lục bát và song thất lục bát, Nxb.KHXH, H.,1998, tr.44.
(3) Phạm Thiên Thư, Động hoa vàng, Tiếng thơ xuất bản, Sài Gòn, 1971, tr.87.
(4) Bùi Bảo Trúc, “Lục bát và những đóng góp của Du Tử Lê”, trong tập: Du Tử Lê, Chấm dứt luân hồi em bước ra, Tủ sách Văn học nhân chứng, Hoa Kì, 1993, tr.153.
(5) Nguyễn Đình Thi, “Sáng mát trong như sáng năm xưa”
(6) Nguyễn Quang Thiều, “Sông Đáy: trong Thơ tự do, Nxb.Trẻ, Tp.HCM, tr.109.
(7) Bùi giáng, Mưa nguồn, Nxb.Hội Nhà văn, H., 1993 – sách tái bản.
(8) Phan Huyền Thư, “Nằm nghiêng” trong Nằm nghiêng, Nxb.Hội Nhà văn, H., 2002, tr.65.
(9) Trần Tiến Dũng, “Trong túi vải căng phồng” trong Hiện, Nxb.Thanh niên, H., 2000, tr.61.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *